hs_guong_mau

New Member
Download Tổng quan chung tình hình y tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 và định hướng cho nền y tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020

Download Tổng quan chung tình hình y tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 và định hướng cho nền y tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 miễn phí





TỔNG QUAN CHUNG TÌNH HÌNH Y TẾ VIỆT NAM 2001-2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG Y TẾ VIỆT NAM 2011-2020 QUA CÁC SỐ LIỆU THỐNG KÊ & TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Tổng quan nhằm cung cấp một bức tranh về tình hình Y tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 để rút ra những cơ hội và thách thức đốI với sức khoẻ của người Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó thử nêu định hướng cho Y tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tổng quan được chuẩn bị theo 3 tiếp cận là:
1. Tiếp cận hệ thống
2. Tiếp cận dịch tễ học
3. Tiếp cậnh kinh tế học.
Dựa trên 3 tiếp cận này, tổng quan phân tích 4 vấn đề sau đây:
1. Giai đoạn 2001-2010 trong quá trình phát triển của Y tế Việt Nam (phân tích theo tiếp cận hệ thống)
2. Sức khoẻ và bệnh tật/Yếu tố ảnh hưởng sức khoẻ và bệnh tật giai đoạn 2001-2010 (phân tích theo tiếp cận dịch tễ học)
3. Nhu cầu và cung ứng CSSK/Yếu tố ảnh hưởng cung cầu CSSK giai đoạn 2001-2010 (phân tích theo tiếp cận kinh tế học)
4. Cơ hội và thách thức cho Y tế/Định hướng Y tế giai đoạn 2011-2020 (phân tích tổng hợp)
Tiếp cận hệ thống giúp xác định hệ thống Y tế Việt Nam trong từng giai đoạn, từng phân kỳ phát triển thuộc mô hình nào trong các mô hình sau đây. Chính tiếp cận này cho phép phân tích xu thế phát triển, định hướng của một hệ thống Y tế.
1. Mô hình hệ thống Y tế công kiểu Beveridge (Anh quốc) là một hệ thống hoàn chỉnh không gắn với hệ thông hành chính, hoạt động bằng ngân sách lấy từ thuế thu nhập.
2. Mô hình hệ thống Y tế xã hội chủ nghĩa kiểu Semasko (Liên Xô;) là một hệ thống do Nhà nước tài chính và cung ứng.
3. Hệ thống Y tế phúc lợi theo mô hình Bismark (Đức, Pháp) là hệ thống Y tế dựa trên bảo hiểm Y tế toàn dân; mỗi người dân phải đóng bảo hiểm Y tế theo mức thu nhập của mình; những người thu nhập thấp được Nhà nước đóng hộ bảo hiểm Y tế.
4. Hệ thống Y tế tư nhân theo mô hình Y tế Mỹ là một hệ thống dựa chủ yếu trên cung ứng dịch vụ Y tế tư và bảo hiểm tư; Nhà nước và cộng đồng hỗ trợ cho người nghèo và người già thông qua một số cơ sở Y tế cộng đồng và bảo hiểm Nhà nước (Quỹ KCB cho người nghèo, quỹ KCB cho người già;)
5. Hệ thống Y tế công tư kết hợp là hệ thống dựa trên sự phân tách giữa cung ứng và tài chính. Công và tư. Cung ứng có phần công, có phần tư. Tài chính có phần công, có phần tư. Mỗi quốc gia có thể có tài chính công đến mức nào, tài chính tư đến mức nào và cung ứng tư đến mức nào, cung ứng công đến mức nào.
Tiếp cận dịch tễ học giúp xác định tình hình sức khoẻ và bệnh tật, các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ và bệnh tật và xu thế thay đổi của sức khoẻ và bệnh tật dựa trên các chỉ số sức khoẻ và bệnh tật. Chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ về con người trong đó có các chỉ số sức khoẻ và bệnh tật của người Việt Nam là một cơ sở để phân tích.
Tiếp cận kinh tế học coi CSSK là một loại hàng hoá đặc biệt có nhu cầu, có cung ứng. Nhu cầu trong CSSK là nhu cầu (need) thay cho yêu cầu (demand) của kinh tế học nói chung.
 



++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

TỔNG QUAN CHUNG TÌNH HÌNH Y TẾ VIỆT NAM 2001-2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG Y TẾ VIỆT NAM 2011-2020 QUA CÁC SỐ LIỆU THỐNG KÊ & TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

Tổng quan nhằm cung cấp một bức tranh về tình hình Y tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 để rút ra những cơ hội và thách thức đốI với sức khoẻ của người Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó thử nêu định hướng cho Y tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tổng quan được chuẩn bị theo 3 tiếp cận là:

1. Tiếp cận hệ thống

2. Tiếp cận dịch tễ học

3. Tiếp cậnh kinh tế học.

Dựa trên 3 tiếp cận này, tổng quan phân tích 4 vấn đề sau đây:

1. Giai đoạn 2001-2010 trong quá trình phát triển của Y tế Việt Nam (phân tích theo tiếp cận hệ thống)

2. Sức khoẻ và bệnh tật/Yếu tố ảnh hưởng sức khoẻ và bệnh tật giai đoạn 2001-2010 (phân tích theo tiếp cận dịch tễ học)

3. Nhu cầu và cung ứng CSSK/Yếu tố ảnh hưởng cung cầu CSSK giai đoạn 2001-2010 (phân tích theo tiếp cận kinh tế học)

4. Cơ hội và thách thức cho Y tế/Định hướng Y tế giai đoạn 2011-2020 (phân tích tổng hợp)

Tiếp cận hệ thống giúp xác định hệ thống Y tế Việt Nam trong từng giai đoạn, từng phân kỳ phát triển thuộc mô hình nào trong các mô hình sau đây. Chính tiếp cận này cho phép phân tích xu thế phát triển, định hướng của một hệ thống Y tế.

1. Mô hình hệ thống Y tế công kiểu Beveridge (Anh quốc) là một hệ thống hoàn chỉnh không gắn với hệ thông hành chính, hoạt động bằng ngân sách lấy từ thuế thu nhập.

2. Mô hình hệ thống Y tế xã hội chủ nghĩa kiểu Semasko (Liên Xô) là một hệ thống do Nhà nước tài chính và cung ứng.

3. Hệ thống Y tế phúc lợi theo mô hình Bismark (Đức, Pháp) là hệ thống Y tế dựa trên bảo hiểm Y tế toàn dân; mỗi người dân phải đóng bảo hiểm Y tế theo mức thu nhập của mình; những người thu nhập thấp được Nhà nước đóng hộ bảo hiểm Y tế.

4. Hệ thống Y tế tư nhân theo mô hình Y tế Mỹ là một hệ thống dựa chủ yếu trên cung ứng dịch vụ Y tế tư và bảo hiểm tư; Nhà nước và cộng đồng hỗ trợ cho người cùng kiệt và người già thông qua một số cơ sở Y tế cộng đồng và bảo hiểm Nhà nước (Quỹ KCB cho người nghèo, quỹ KCB cho người già)

5. Hệ thống Y tế công tư kết hợp là hệ thống dựa trên sự phân tách giữa cung ứng và tài chính. Công và tư. Cung ứng có phần công, có phần tư. Tài chính có phần công, có phần tư. Mỗi quốc gia có thể có tài chính công đến mức nào, tài chính tư đến mức nào và cung ứng tư đến mức nào, cung ứng công đến mức nào.

Tiếp cận dịch tễ học giúp xác định tình hình sức khoẻ và bệnh tật, các yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ và bệnh tật và xu thế thay đổi của sức khoẻ và bệnh tật dựa trên các chỉ số sức khoẻ và bệnh tật. Chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ về con người trong đó có các chỉ số sức khoẻ và bệnh tật của người Việt Nam là một cơ sở để phân tích.

Tiếp cận kinh tế học coi CSSK là một loại hàng hoá đặc biệt có nhu cầu, có cung ứng. Nhu cầu trong CSSK là nhu cầu (need) thay cho yêu cầu (demand) của kinh tế học nói chung.

1. GIAI ĐOẠN 2001-2010 CỦA Y TẾ VIỆT NAM (Phân tích hệ thống)

1.1. Ba giai đoạn phát triển của Y tế Việt Nam

Ngành Y tế Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn sau: Giai đoạn trước cải tạo xã hội chủ nghĩa (1946-1959), Giai đoạn Y tế xã hội chủ nghĩa theo mô hình Y tế Semasko (1959-1989), Giai đoạn đổi mới (từ sau 1989 đến nay).

1.1.1. Giai đoạn trước cải tạo xã hội chủ nghĩa

Giai đoạn trước cải tạo xã hội chủ nghĩa có một phân kỳ chiến tranh và một phân kỳ hoà bình. Sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1945), một hệ thống Y tế đã được thiết lập trên cơ sở nền Y tế thuộc địa trước đó. Phân kỳ chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954) có một hệ thống Y tế công tư kết hợp thoát thai từ hệ thống Y tế thuộc địa kiểu Pháp. Tuy còn rất non trẻ, hệ thống Y tế này đã phải đương đầu với chiến tranh (kháng chiến chống Pháp) và với các bệnh lưu hành nặng nề như bệnh sốt rét và các bệnh dịch nguy hiểm như dịch đậu mùa, dịch bại liệt,… Nhà nước chưa thể huy động nhiều nguồn lực công cho Y tế nên phải động viên lòng yêu nước, huy động các nguồn lực công và tư, huy động Đông Y và Tây Y, huy động dân Y và quân Y. Ngay từ thời kỳ đầu, ngành Y tế Việt Nam non trẻ đã chủ trương coi vệ sinh phòng bệnh và nâng cao sức khoẻ là chiến lược dựa trên các biện pháp có thể lúc đó như tiêm chủng (chủng đậu) và giáo dục Y tế. Lúc này, nhân lực y tế yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đã phải giải quyết khó khăn nhân lực Y tế bằng cách đào tạo nhiều loại hình nhân lực Y tế, đã mở ra đào tạo loại hình Y sĩ, đã đưa sinh viên Y khoa ngay từ những năm đầu ra chiến trường và về địa phương thực hành. Song song với hệ thống Y tế chính thống kháng chiến, một hệ thống Y tế tạm chiếm theo kiểu trước năm 1945 (hệ thống Y tế thuộc địa kiểu Pháp) cũng đồng thời hoạt động tại một số thành phố và thị xã do người Pháp chiếm đóng.

Sau hội nghị Geneve năm 1954, hệ thống Y tế kháng chiến và hệ thống Y tế tạm chiếm được nhập vào thành một hệ thống Y tế chung tại phía Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17. Hệ thống Y tế này được tổ chức theo khuôn khổ của quản lý hành chính Nhà nước với 3 cấp: quản lý hành chính là trung ương (Bộ Y tế), tỉnh (sở Y tế tại các thành phố và ty y tế tại các tỉnh) và huyện (phòng Y tế). Một hệ thống phòng bệnh dần dần được thiết lập với các viện đầu ngành như Viện Vệ sinh Dịch tễ (Viện Pasteur), Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Công trùng, Viện Lao và bệnh phổi, v.v..., các trạm Y tế tại tuyến huyện và các đội phòng bệnh tại tuyến huyện. Một hệ thống khám chữa bệnh cũng dần dần hình thành với các bệnh viện và các phòng khám bệnh bao gồm các bệnh viện trung ương, các bệnh viện tuyến tỉnh và các bệnh viện tuyến huyện (cho các huyện lớn). Hệ thống Y tế cơ sở cũng dần dần được hình thành với sự thiết lập các trạm y tế xã và các y tế thôn bản. Hệ thống Y tế thôn bản là một sáng kiến lớn của Việt Nam. Hệ thống Y tế này dựa vào tài chính của các hợp tác xã; nhân viên của trạm Y tế xã được hưởng công điểm như các xã viên và làm việc phục vụ nhân dân của xã; nhân dân trong xã đóng góp sức người sức của để xây dựng trạm Y tế xã, Nhà nước (các phòng Y tế và sở Y tế) giúp đào tạo nhân lực, hướng dẫn và quản lý chuyên môn. Việt Nam đã phát tiển nhân viên Y tế cộng đồng ngay từ thời gian này với cách đào tạo y tế 3 tháng, y tế 6 tháng, y tế 9 tháng lấy nguồn nhân lực cho đi đào tạo y tá và y sĩ. Nhiều phong trào vệ sinh yêu nước đã được phát động. Trong thời gian này, các cơ sở Y tế công và tập thể được phát triển mạnh. Song, nhiều cơ sở Y tế tư vẫn tồn tại bao gồm các bệnh viện tư như bệnh viện Saint Paul của Toà xứ Hà Nội, các phòng khám bệnh của tư, các nhà thuốc tư, v.v…

1.1.2. Giai đoạn Y tế xã hội chủ nghĩa

Năm 1989, cùng với chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa, hệ thống Y tế công tư đã chấm dứt và thay vào đó là hệ thống Y t
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top