Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngành nuôi trồng nấm phát triển mạnh mẽ trên cả nước, tổng các loại nấm ăn và nấm dược liệu trong năm 2006 ước tính đạt khoảng 1,5 triệu tấn. Nghề nuôi trồng nấm ra đời đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân và làm giàu cho rất nhiều hộ gia đình. Với nguồn nguyên liệu chủ yếu là phế thải nông nghiệp và công nghiệp, do đó ngành nuôi trồng nấm đã góp phần giải quyết nạn ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên toàn cầu. Đặc biệt hơn nữa, nấm không chỉ là nguồn dinh dưỡng an toàn cho con người mà nấm còn được xem như là một trong những nguồn dược liệu quí mà hiện nay đang được sử dụng để chữa bệnh ngày càng phổ biến.
Trong đó, linh chi được xem như là một loại tiên dược, có thể chữa được bách bệnh, giúp con người trường thọ. Các nghiên cứu dược học hiện đại đã chứng minh linh chi chứa tới 120 chất, bao gồm các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố vi lượng và các vitamin... linh chi có tác dụng đặc biệt đối với các triệu chứng suy giảm miễn dịch, căng thẳng thần kinh suy sụp tinh thần, giải độc kém, ít ngủ, các triệu chứng của hệ tim mạch, ăn không ngon, bệnh béo phì, da xấu do nhiều nếp nhăn. Linh chi cũng có tác dụng trong việc ngăn ngừa bệnh AIDS và làm chậm quá trình phát bệnh ở bệnh nhân đã mắc phải bệnh này. Họ đã sử dụng các phương pháp bào chế thông thường là ngâm rượu, cắt lát nấu lấy nước, nghiền bột để uống, cũng có thể bào chế thành viên nang, viên hoàn thuốc tiêm [1].
Ở Nhật Bản, người ta sử dụng nấm như là nguồn thực phẩm và dược phẩm hàng đầu, do đó họ có sức khỏe rất tốt và tuổi thọ cao. Không chỉ dùng đơn thuần dạng nấm tươi mà ở Nhật nấm còn được sản xuất thành nhiều dạng sản phẩm như: nước tương, bột nấm, nước chao, súp nấm, thực phẩm chức năng bổ, các loại, thuốc, trà...để điều trị một số bệnh như: viêm phế quản mãn tính, bệnh tim mạch, viêm gan cấp và mãn, viêm khớp, viêm phổi...
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng nấm phát triển. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện phù hợp cho ngành trồng nấm quanh năm, nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động đông. Trong khi đó, trồng nấm thì không cần đất mà chỉ cần diện tích nhỏ, vốn đầu tư thấp, vòng quay ngắn, hiệu quả cao gấp chục lần so với cây lúa….
Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống và nhu cầu của con người ngày càng cao, kéo theo đó là các bệnh tật hiểm cùng kiệt cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Việc điều trị bằng các loại thuốc, hóa chất trị liệu hiện nay vẫn còn rất khan hiếm và đắt tiền so mức thu nhập của người Việt Nam (chưa kể đến các tác dụng phụ). Trong khi đó nấm Linh chi với giá thành tương đối rẻ và có hiệu quả cao trong việc điều trị và làm thuyên giảm một số căn bệnh như: ung thư, đái đường, các vấn đề về tim mạch, hô hấp, HIV,…
Chính những lý do như trên mà chúng tui đã đề xuất đề tài “Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam” nhằm góp phần đa dạng hơn về các chế phẩm thuốc từ nấm, hạn chế phần nào các bệnh tật hiểm cùng kiệt đang ngày càng tràn lan.
Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và dược liệu ở Việt Nam và trên thế giới
1.1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu trên thế giới
Hiện nay, nghề trồng nấm đã phát triển trở thành một ngành công nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt phải kể đến là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ,...
Việc nuôi trồng nấm linh chi được ghi nhận từ năm 1621, nhưng đến 300 năm sau (1936), với thành công của GS Dật Kiến Vũ Hưng (Nhật) thì ngành nuôi trồng nấm mới được phổ biến. Nếu tính từ 1979 sản lượng nấm linh chi khô ở Nhật đạt 5 tấn/năm thì đến năm 1995, sản lượng lên đến gần 200 tấn/năm. Như vậy là 16 năm, sản lượng nấm linh chi của Nhật đã tăng gấp 40 lần [4].
Hàng năm, thế giới sản xuất khoảng 4300 tấn nấm linh chi, trong đó riêng Trung Quốc trồng khoảng 3000 tấn, còn lại các quốc gia khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Srilanca. Trong khi Nhật Bản là nước đưa ra kỹ thuật nuôi trồng nhưng hiện nay đứng sau Trung Quốc. Kỹ thuật nuôi trồng linh chi ngày càng phát triển và tại Việt Nam nhiều nhà nghiên cứu đã thành lập một trại nuôi trồng và bào chế linh chi ở Sài Gòn từ năm 1987 [9].
Nhóm nấm quý họ linh chi (Ganodermataceae) sống trên cây, trên gỗ hay rễ cây mục. Cho tới nay đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài được các nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được.
Trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì từ lâu nấm linh chi đã được nghiên cứu và sử dụng vào việc phòng và điều trị bệnh. Đến nay công nghệ nuôi trồng nấm ở các quốc gia này đã phát triển ở quy mô công nghiệp hiện đại và đem lại nguồn thu khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Sản xuất nấm phát triển đã tận dụng nguyên liệu thừa trong các ngành công nghiệp, nông lâm nghiệp, cùng một lúc đem lại sản phẩm có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường.
Đến nay việc nghiên cứu về nấm linh chi không còn giới hạn trong phạm vi đất nước Trung Quốc, mà đã mang tính toàn cầu. Hiện nay có khoảng 250 bài báo của các nhà khoa học trên thế giới đã được công bố liên quan tới dược tính và lâm sàng của linh chi. Tháng 7 /1994, Hội nghị Nấm học thế giới tại Vancouver, Canada đã nhất trí thành lập viện nghiên cứu linh chi Quốc Tế, đặt trụ sở tại NewYork (Hoa Kỳ) [8].
Nhiều công trình nghiên cứu về linh chi đã chứng minh trong linh chi chứa nhiều hợp chất germanium và polysaccharid có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi chất; làm chậm quá trình lão hóa; tăng cường miễn dịch cho cơ thể; nâng cao khả năng đề kháng bệnh; điều tiết hệ thần kinh trung ương, giúp thăng bằng cơ năng; ổn định huyết áp; bảo vệ gan; bổ não, tăng trí thông minh, tăng trí nhớ; giảm nhẹ các tác dụng phụ ở bệnh nhân ung thư khi điều trị bằng hóa dược liệu;...Chính vì thế mà ở châu Á việc sử dụng linh chi làm thuốc, thực phẩm chức năng, trà thuốc trở nên rất phổ biến và số người sử dụng linh chi ngày càng một tăng trong những năm gần đây [1].
1.1.2. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam
Từ những năm 70, đặc biệt trong các năm 80 và 90 của thế kỷ XX ở Việt Nam nấm linh chi đã được quan tâm và nghiên cứu nhiều về thành phần hóa học cũng như tác dụng dược lý và quy trình sản xuất ra các chế phẩm. Hiện nay, các chế phẩm từ linh chi đã được con người ưa chuộng và sử dụng ngày càng rộng rãi với nhiều hình thức đa dạng về chủng loại như: thuốc tiêm, cồn thuốc, cao dán, thuốc xông và cao thuốc dùng ngoài. Việc nghiên cứu phân lập nhóm hoạt chất làm thuốc còn rất hạn chế, cần được quan tâm nhiều hơn. Trong công nghiệp điều chế, nhóm polysaccharid rất được chú ý, ngoài ra các acid amin và các nguyên tố vi lượng cũng được quan tâm [1].
Ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định nấm linh chi có thể chữa khỏi hay hạn chế các bệnh hiểm cùng kiệt như: ung thư, đái đường, tim mạch, hô hấp… Giá trị dược liệu của nấm linh chi đã được ghi chép trong các thư tịch cổ, cách nay hơn 4000 năm. Trong “Thần nông bách thảo” đã đề cập đến 365 dược thảo và linh chi được xếp vào loại thượng dược, ở vị trí số một sau đó mới đến nhân sâm và phân biệt linh chi thảo theo màu sắc: xích chi (linh chi đỏ), huỳnh chi (linh chi vàng), hắc chi (linh chi đen), tử chi (linh chi tím), bạch chi (linh chi trắng) và thanh chi (linh chi xanh) có tác dụng làm thuốc tốt nhất nên gọi Lục Bảo Linh chi [2].
Đại danh y Lý thời trần viết: “Linh chi, dùng lâu người nhẹ nhàng, trẻ lâu, sống lâu như thần tiên”. Ngành nuôi trồng nấm dược liệu trong những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, tổng sản lượng ước tính đạt khoảng 100.000 tấn/năm. Với công nghệ ngày càng hiện đại, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu thành công các nguồn nguyên liệu nuôi trồng nấm linh chi thay cho mùn cưa cao su trước đây. Kết quả này đã góp phần tránh lãng phí và hạn chế sự ô nhiễm môi trường bởi nguyên liệu được sử dụng là phế thải của các nhà máy đường, công nghiệp dệt như: bã mía, bông thải,…[2]. Đặc biệt trong một vài năm gần đây con người đã tìm kiếm và phát hiện một lượng khá lớn nấm cổ linh chi tại một số vùng núi cao ở nước ta. Đây là một kho tàng sản phẩm quí của y dược Việt Nam, cần được nghiên cứu sâu để ứng dụng đưa vào sản xuất, khai thác và phát triển nấm linh chi ở nước ta [1].
1.2. Thành phần hoá học của nấm linh chi
Thành phần hóa học của G.lucidum gồm các chất:
Nước : 12-13%
Lignin : 13-14%
Cellulose : 54-56%
Hợp chất nitơ : 1,6-2,1%
Hợp chất phenol : 0,08- 0,1%
Hợp chất steroid : 0,11-0,16%
Chất béo : 2%
Chất khử : 4-5%
Saponin toàn phần : 0,3-1,23%
Acaloide và glucoside tổng số : 1,82-3,06%
Các nguyên tố vô cơ như: Ag, Br, Ca, Fe, K, Na, Mg, Mn, Zn, ...Hai nguyên tố quan trọng nhất là selenium và germanium [4].
1.2.1. Các polysaccharid [1]
Phần lớn thực vật chứa polysaccharid, nhưng trong thời gian khá dài chưa được quan tâm, gần đây các nhà khoa học đã biết polysaccharid là nhóm chất có tác dụng đặc biệt, nhất là các polysaccharid chứa trong nấm. Tác dụng chống ung thư và tăng cường miễn dịch, kéo dài tuổi thọ của nhóm chất này được nhiều người quan tâm và đã được ứng dụng trên lâm sàng.
Đã chiết tách bằng nước nóng hồng chi thể quả và phân lập được 18 polysaccharid trong đó bao gồm 7 polysaccharid liên kết protein, 4-glucan còn lại là các polysaccharid khác.
1.2.2. Các 3-terpen
Các chất thuộc nhóm 3-terpen được phát hiện từ năm 1982 từ hồng chi. Cho đến nay được chia làm 3 loại: C30, C20 và C24 hay 5 loại theo công thức cấu tạo [1].
1.2.3. Các alcaloid

Dùng cồn ethanol 95% chiết ở 650C trong 48h. Dịch chiết đem lọc, thu hồi cồn và bào chế thành cồn thuốc 10%.
Công dụng: Bổ dưỡng, chữa trị viêm phế quản.
Cách dùng: Uống mỗi lần 10ml, ngày 3 lần, thời gian điều trị 50 ngày.
3.2.4. Polysaccharid linh chi [1]
Lấy 5 kg linh chi tươi, rửa sạch, cắt nhỏ. Chiết hồi lưu 3 lần với lượng nước gấp 6 lần. Thời gian chiết 3, 2, 1 giờ. Gộp dịch chiết đã lọc, cô đặc dưới áp suất lỏng giảm còn 2,5 lít. Cho thêm cồn ethanol để có độ cồn 80%, để yên trong 12 giờ, ly tâm thu lại phần rắn. Cho nước cất vào đun sôi để hòa tan. Lọc nóng loại bỏ phần không tan. Dung dịch tan vừa lắc vừa cho thêm ethanol để có độ cồn 80%, dùng tia cực tím tiệt trùng, để lắng lọc và làm khô ở phòng lạnh. Thu được khoảng 0,55% polysaccharid linh chi thô.
Cho sản phẩm thô vào 3 lít nước cất để hòa tan, nhỏ 30ml dung dịch acid oxalic 3%, lắc đều, đun sôi và ly tâm lấy dung dịch trong, cho than hoạt tính với lượng khoảng 2% lắc đều trong 10 phút, lọc nóng, sau đó để nguội dung dịch. Cho thêm ethanol để có độ cồn 70%, để yên trong 24 giờ, lọc. Dùng 4 lít cồn ethanol 70%, làm kết tủa nhiều lần. Cho sản phẩm còn ướt vào 2 lít ethanol 20% đun nóng, lọc qua phễu có chứa 200g oxyt nhôm, lọc giảm áp. Sau đó dùng nước cất nóng 600C để rửa. Dung dịch lọc cô đặc giảm còn 250 ml. Cho ethanol để có độ cồn 70%, để yên, lọc và làm khô ở phòng lạnh, thu được polysaccharid linh chi tinh khiết.
3.2.5. Thuốc viên nang linh chi [1]









Phương pháp điều chế: Linh chi tán thành bột mịn bằng máy chuyên dụng, lần lượt chiết với cồn ethanol 45%, 50% và 75% bằng phương pháp ngâm trong 24h. Dung dịch lọc cô thu hồi cồn dưới áp suất giảm ở 600C thành cao. Cho tá dược vào trộn và sấy ở 600C. Sau khi làm khô lại cho lượng hồ tinh bột 10% trộn đều và bào chế thành viên.
Công dụng: Bổ dưỡng, cường tim, chống thiếu dưỡng khí, bảo vệ gan, an thần, viêm khí quản mạn ở người già.
Cách dùng: Ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 viên.
3.2.6. Thuốc tiêm linh chi [1]
Phương pháp điều chế: Lấy 200g linh chi tán thành bột thô, cho thêm 100 ml ethanol 75%, đun hồi lưu 2 giờ, tất cả 6 lần chiết. Lọc dịch chiết qua giấy lọc, thu hồi cồn ở điều kiện áp suất giảm còn 20 ml, để trong phòng lạnh, cho thêm 2lít, để yên trong 24 giờ, sau đó và thu hồi cồn cho đến khi không còn mùi cồn. Cho đủ lượng nước cất tiêm nóng và 0,15% than hoạt, trộn đều và giữ trong 30 phút ở 800C. Sau đó để trong phòng lạnh trong 48 giờ. Lọc qua 2 lớp giấy lọc cho đến khi thật sach than hoạt. Dung dịch lọc cho thêm Tweens, sau đó dùng NaOH 10% để điều chỉnh pH= 6-7, ngâm vào nước 800C trong 15 phút, lắc đều và bổ sung nước cất tiêm cho vừa đủ, lọc 2 lần qua 2 lớp túi lọc. Sau đó lọc qua cột lọc số 4, diệt khuẩn và đóng ống.
Công dụng: an thần, giảm lo âu, giảm đau, trừ đờm. Dùng cho người thần kinh yếu, viêm khí quản mạn, bệnh mạch vành, viêm võng mạc, viên gan và xơ gan.
Cách dùng: Tiêm bắp, mỗi lần 2-4 ml, mỗi ngày 2 lần.
3.2.7. Thuốc hạ cholesterol [1]
Linh chi: 87,5 g Sơn Tra: 212,5 mg,
Xích Thược: 675g, Thảo Quyết Minh: 675g,
Đường saccharose: 75g Acid benzoic trộn đều
Cho thêm nước cất vừa đủ 1000 ml.
Công dụng: Chữa trị cholesterol, cường tim, lợi tiểu, hoạt huyết, chữa bệnh mạch vành.
Cách dùng: Ngày uống 3 lần, mỗi lần 15 ml.
3.2.8. Trà Linh chi
3.2.8.1. Kỹ thuật chế biến trà linh chi [8]

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:

Các chủ đề có liên quan khác

Top