PIG_PIG

New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Khảo sát ngữ nghĩa thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại, những giá trị biểu trưng : Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 01
Nhà xuất bản: ĐHKHXH&NV
Ngày: 2012
Chủ đề: Ngữ nghĩa
Thành ngữ
Quán ngữ
Tiếng Việt
Miêu tả: 104 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012
Trình bày cơ sở lý luận về thành ngữ, quán ngữ và quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ, quán ngữ. Nghiên cứu toàn cảnh thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại: cấu trúc của thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại; thành ngữ có cấu trúc so sánh; thành ngữ có kết cấu cụm từ; thành ngữ có kết cấu câu. Tìm hiểu ngữ nghĩa thực tại của thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và giá trị biểu trưng của chúng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài......................................................................................... 6
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu và nội dung nghiên cứu ............................................ 8
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 8
3.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................... 9
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 9
5.Nguồn ngữ liệu khảo sát............................................................................ 10
6. Bố cục luận văn........................................................................................ 11
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ, CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................. 12
1.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ, quán ngữ ............................................... 12
1.2.Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ, quán ngữ .... 15
1.2.1. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ .......... 15
1.2.2. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về quán ngữ ............ 26
Tiểu kết ........................................................................................................ 32
CHƢƠNG 2: TOÀN CẢNH THÀNH NGỮ, QUÁN NGỮ THỜI HIỆN
ĐẠI.............................................................................................................. 33
2.1. Một số khuynh hướng phân loại và tiêu chí phân loại của luận văn ....... 33
2.2. Cấu trúc của thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại..................................... 43
2.2.1. Thành ngữ, quán ngữ có cấu trúc đối xứng......................................... 43
2.2.1.1. Vế của thành ngữ có cấu tạo theo cấu trúc: Cụm danh từ................. 49
2.2.1.2.Vế của thành ngữ có cấu tạo theo cấu trúc: Cụm động từ ................. 50
2.2.1.3.Vế của thành ngữ có cấu tạo theo kiểu: Cụm số từ............................ 51
2.2.1.4.Vế của thành ngữ có cấu trúc theo kiểu: Cụm tính từ........................ 52
2.2.1.5.Thành ngữ được cấu tạo theo cấu trúc: Chủ ngữ + Vị ngữ................ 53
2.2.2. Thành ngữ có cấu trúc so sánh............................................................ 54
2.2.2.1.Thành ngữ so sánh theo quan hệ ngang bằng.................................... 54112
2.2.2.2.Thành ngữ so sánh theo quan hệ hơn kém ........................................ 56
2.2.3.Thành ngữ có kết cấu cụm từ............................................................... 57
2.2.3.1. Thành ngữ có có kết cấu cụm danh từ.............................................. 58
2.2.3.2.Thành ngữ có kết cấu cụm tính từ..................................................... 59
2.2.3.2.Thành ngữ có kết cấu cụm động từ ................................................... 59
2.2.4.Thành ngữ có kết cấu câu .................................................................... 59
Tiểu kết ........................................................................................................ 60
CHƢƠNG 3: NGỮ NGHĨA THỰC TẠI CỦA THÀNH NGỮ, QUÁN
NGỮ THỜI HIỆN ĐẠI VÀ GIÁ TRỊ BIỂU TRƢNG CỦA CHÚNG .... 61
3.1.Quan niệm về nghĩa của từ, nghĩa của thành ngữ, quán ngữ ................... 61
3.1.1.Quan niệm về nghĩa của từ .................................................................. 61
3.1.2. Quan niệm về nghĩa của thành ngữ, quán ngữ .................................... 65
3.2.Quan niệm về nghĩa biểu trưng, nghĩa biểu tượng và giá trị biểu trưng,
biểu tượng của thành ngữ, quán ngữ............................................................. 69
3.2.1. Quan niệm về nghĩa biểu trưng, nghĩa biểu tượng .............................. 69
3.2.1.1. Một số quan niệm về biểu trưng, biểu tượng.................................... 69
3.2.1.2. Tính biểu trưng của thành ngữ, quán ngữ......................................... 73
3.3. Ngữ nghĩa thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và giá trị biểu trưng của
chúng ........................................................................................................... 77
3.3.2. Thành ngữ, quán ngữ phản ánh cuộc sống vất vả của người dân Việt
Nam ............................................................................................................. 78
3.3.3. Thành ngữ, quán ngữ thể hiện công cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc.... 82
3.3.4. Thành ngữ, quán ngữ thể hiện những tiêu cực của xã hội ................... 84
3.3.5. Những hình ảnh biểu trưng của thành ngữ, quán ngữ.......................... 88
Tiểu kết ........................................................................................................ 90
KẾT LUẬN................................................................................................. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 95
PHỤ LỤC ................................................................................................... 93
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, bên cạnh các từ còn có các đơn vị
tương đương với từ. Đó là các cụm từ cố định. Cụm từ cố định là một trong
hai đơn vị cơ bản của hệ thống từ vựng tiếng Việt. Chính vì vậy, cụm từ cố
định đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu nhiệt tình của các nhà ngôn ngữ học
Việt Nam.
Thành ngữ, quán ngữ là những ngữ cố định và chúng là một loại đơn vị
mà trong ngôn ngữ học thừa nhận là tương đương với từ trong chức năng biểu
đạt và hoạt động ngôn từ. Đây là tổ hợp từ được cố định hóa trong lời ăn tiếng
nói của quần chúng nhân dân. Do đó, nội dung ngữ nghĩa của nó thường bao
hàm nghĩa cố định, được đúc kết sâu sắc từ kinh nghiệm bao đời nay của cha
ông ta như: Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng; Cả vú lấp miệng em; Ăn cháo
đái bát; Lẩn như chạch…
Có thể nói thành ngữ, quán ngữ là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt. Ngôn ngữ càng phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự
xuất hiện của các quán ngữ và đặc biệt là các thành ngữ mới, chúng xuất hiện
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
cùng với sự biến đổi của đời sống xã hội và phản ánh chân thực nhất những
nét mới, sự thay đổi trong đời sống xã hội của người Việt.
Vì vậy, có thể thấy trong thời hiện đại, từ nhu cầu của cuộc sống, trong
lời ăn tiếng nói của nhân dân có những đơn vị được cố định hóa như: Thủ kho
to hơn thủ trưởng; Trả góp bóp cổ dân nghèo; Văn hay chữ tốt không bằng
thằng dốt lắm tiền; Ăn như tu, ở như tù; Làm thì láo, báo cáo thì giỏi; Ba con
năm vừa nằm vừa ký; Samit nói ít hiểu nhiều…. Những đơn vị này xuất hiện
từ thế kỷ 20 và chúng được gọi là thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại.
Trong nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa nói chung, thành ngữ quán ngữ
nói riêng đã được giới ngữ học Việt Nam chú ý nhiều. Tuy nhiên, các nhà
Việt ngữ học thường chú ý tổng thể cấu tạo ngữ nghĩa của chúng. Riêng đối
với thành ngữ, quán ngữ thời kỳ mới chưa được chú ý đào sâu tìm hiểu nhất
là bình diện nghĩa. Do đó, có thể thấy đây là vấn đề còn khá mới và chứa
đựng nhiều lý thú nếu tiếp tục đào sâu nghiên cứu. Chính vì vậy, thiết nghĩ
việc chọn những thành ngữ, quán ngữ này và khai thác ý nghĩa, giá trị biểu
trưng của nó là một việc làm hữu ích, góp phần mở ra một hướng nghiên cứu
mới về thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại.
Vì những lý lẽ trên, chúng tui quyết định chọn đề tài luận văn: Khảo sát
ngữ nghĩa thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại, những giá trị biểu trƣng.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, thành ngữ, quán ngữ là những bộ
phận chiếm số lượng lớn, rất đa dạng và phong phú về mặt nội dung. Nghiên
cứu nội dung nghĩa thành ngữ, quán ngữ nói chung là đề tài lớn quá sâu rộng.
Trong khảo sát bước đầu chúng tui tạm chọn giới hạn là thời hiện đại.
Vậy nhìn tổng thể theo tìm hiểu của chúng tui là thời kỳ khoảng hơn
một thế kỷ trở lại đây. Trong lịch sử khái niệm hiện đại có thể hiểu là từ khi
thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta với chính sách khai thác thuộc địa8
lần thứ nhất cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là thời kỳ chế độ thực dân
nửa phong kiến. Năm 1930 Đảng ta ra đời và tháng 8 năm 1945 cách mạng
thành công mở ra thời đại mới, thành ngữ, quán ngữ cũng đổi mới theo.
Những thành ngữ, quán ngữ xuất hiện trong thế kỷ 20 đặc biệt từ năm 1945 –
mốc thời gian lịch sử đánh dấu những thay đổi quan trọng của xã hội Việt
Nam so với những giai đoạn trước đây - mang nhiều đặc điểm khác biệt so
với những đơn vị thành ngữ, quán ngữ truyền thống về bình diện nội dung
nghĩa bởi thời cuộc, xã hội đưa lại. Do vậy, khi khảo sát những đơn vị thành
ngữ, quán ngữ mới này chúng tui sẽ tập trung nghiên cứu về mặt nội dung ý
nghĩa cũng như giá trị biểu trưng của chúng.
Trên thực tế, số lượng thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại là rất phong
phú. Song do những đơn vị này chưa được tập hợp trong các văn bản chính
thức và thời gian nghiên cứu của chúng tui không cho phép nên việc thu thập
thành ngữ, quán ngữ của chúng tui còn rất hạn chế. Luận văn của chúng tôi
không có tham vọng khảo sát hết tất cả những đơn vị thành ngữ, quán ngữ
mới mà chỉ mong muốn phần nào giúp những người quan tâm có cái nhìn ban
đầu về thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và các giá trị biểu trưng của nó ở
bước đầu nhận diện, miêu tả.
3. Mục đích nghiên cứu và nội dung nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn ngữ liệu mà chúng tui điều tra khảo sát, mục đích
chính của luận văn này là cung cấp cho người đọc một vốn ngữ liệu liên quan
đến thành ngữ, quán ngữ mới. Vốn ngữ liệu này có thể không nhiều song
phần nào giúp người đọc hiểu được những biến chuyển trong đời sống văn
hóa, xã hội của nhân dân trong thời kỳ mới. Từ đó, người đọc có thể tăng
cường năng lực sử dụng thành ngữ, quán ngữ để đạt được hiệu quả giao tiếp
tốt nhất.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Luận văn cũng tiến hành sưu tầm, nhận diện, phân loại thành ngữ, quán
ngữ về mặt cấu tạo cũng như giá trị biểu trưng của chúng. Những khảo sát,
nghiên cứu cũng chỉ có ý nghĩa thăm dò. Bởi vì nói về ngữ nghĩa đơn vị ngôn
ngữ như thành ngữ, quán ngữ là rất khó. Trên cơ sở hiểu biết hạn hẹp chúng
tui không có tham vọng giải quyết mà chỉ nêu vấn đề, một số giải thích có
tính gợi mở mà thôi. Mong muốn chân thành của chúng tui là nhận được
nhiều góp ý để có dịp tiếp tục đào sâu nghiên cứu hơn nữa.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Để có thể đạt được một kết quả khả quan cho đề tài, việc đầu tiên của
chúng tui trong khóa luận này là tiến hành sưu tầm, điều tra và khảo sát các
thành ngữ, quán ngữ mới trong sách báo cũng như trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày của nhân dân.
Từ đó dựa trên những đơn vị, thành ngữ quán ngữ mới đã được thu
thập, chúng tui tiếp tục đào sâu nghiên cứu, khảo sát bình diện nội dung ngữ
nghĩa của những đơn vị này. Đặc biệt là giá trị biểu trưng của nó bởi vì ngữ
nghĩa và giá trị nội dung sẽ cho ta thấy thực tại được phản ánh, hơi thở của
thời đại mới. Đó là thời đại đấu tranh giành độc lập, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong thời kỳ đổi mới và phát triển
hội nhập.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với mong muốn có được một bộ phận thành ngữ, quán ngữ thời hiện
đại cũng như những nhìn nhận ban đầu về chúng, chúng tui vận dụng các
phương pháp nghiên cứu sau.
Trước hết là phương pháp điều tra, khảo sát ngữ liệu và tư liệu: Điều
tra thu thập các đơn vị thành ngữ, quán ngữ mới cũng như các tư liệu liên
quan đến thành ngữ, quán ngữ mới làm cơ sở ban đầu cho việc khảo sát.10
Tiếp theo là nghiên cứu, tìm hiểu những tài liệu lý luận và những tài
liệu đã có liên quan đến thành ngữ, quán ngữ nhằm xây dựng những tri thức
về thành ngữ, quán ngữ làm cơ sở lý luận cho việc khảo sát thành ngữ, quán
ngữ mới.
Sau đó chúng tui áp dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa để phân
tích những đặc trưng ngữ nghĩa của thành ngữ, quán ngữ và để tìm ra những
giá trị biểu trưng của của chúng.
Bên cạnh đó chúng tui cũng sử dụng phương pháp miêu tả để miêu tả
cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ.
Ngoài ra chúng tui cũng sử dụng phương pháp thống kê để thống kê
thành ngữ, quán ngữ thuộc phạm vi nghiên cứu.
Trong toàn bộ hoạt động khảo sát nghiên cứu thì thủ pháp tư duy khoa
học diễn dịch, quy nạp để có thể rút ra nhận xét, kết luận trên cơ sở lý luận,
thực tiễn khảo sát đã được chúng tui triệt để tuân thủ vận dụng.
5.Nguồn ngữ liệu khảo sát
Thành ngữ, quán ngữ tiếng Việt ra đời từ đầu thế kỷ 20 và đặc biệt từ
năm 1945 đến nay được coi là một bộ phận thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại.
Theo chúng tui bộ phận này chưa được mấy ai tập hợp hay mới chỉ tập hợp
được một phần. Bởi vậy chúng tui tiến hành khảo sát thu thập ngữ liệu và
phân tích những đặc điểm về hình thức, nội dung của bộ phận thành ngữ,
quán ngữ này.
Do đặc điểm bộ phận thành ngữ, quán ngữ này chưa được tập hợp nhiều
nên ngữ liệu mà chúng tui thu thập được chủ yếu bằng phương pháp điều tra,
khảo sát trong sách báo cũng như trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Tuy nhiên, do
hạn chế về thời gian cũng như khó khăn trong việc thu thập ngữ liệu mà luận văn
này không có tham vọng để khảo sát hết những đơn vị thành ngữ, quán ngữ mới.
Số lượng các thành ngữ, quán ngữ mà chúng tui thu thập được còn rất khiêm tốn
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
so với số lượng thực tế của bộ phận này. Chúng tui hy vọng có thể góp phần nhỏ
nào đó trong việc nghiên cứu thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và mong muốn
có điều kiện tiếp tục khảo sát sau luận văn.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lịch sử vấn đề, cơ sở lý luận
1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ, quán ngữ
2. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ, quán ngữ
Chƣơng 2: Toàn cảnh thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại
1. Một số khuynh hướng phân loại và tiêu chí phân loại của luận văn
2. Cấu trúc của thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại
Chƣơng 3: Ngữ nghĩa thực tại của thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và
giá trị biểu trƣng của chúng
1. Quan niệm về nghĩa của từ, nghĩa của thành ngữ, quán ngữ
2. Quan niệm về nghĩa biểu trưng, nghĩa biểu tượng và giá trị biểu trưng, biểu
tượng của thành ngữ, quán ngữ
3. Ngữ nghĩa thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và giá trị biểu trưng của
chúng12
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ, CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ, quán ngữ
Đối với tiếng Việt, đã từ lâu người ta nhận thấy có những đơn vị có giá
trị hình ảnh, tu từ, thường đặc trưng bởi những kiểu cấu trúc đặc biệt, có tiết
tấu, vần điệu rõ ràng hay có cả lối lặp âm hài hòa. Những đơn vị như thế
thường được dùng với những mục đích tu từ, những phương tiện biểu cảm.
Chúng xuất hiện và phát triển cùng với ngôn ngữ, gốc rễ của chúng thường ăn
sâu vào quá khứ hằng bao thế kỷ. Đó chính là những thành ngữ. Ví dụ: Của
ăn của để; Già néo đứt dây; Rút dây động rừng; Mèo mả gà đồng, Cạn tàu ráo
máng, Ăn cháo đá bát…. Cũng như tất cả những đơn vị ngôn ngữ khác, chúng
tồn tại một cách khách quan trong ngôn ngữ, độc lập đối với những quan niệm
chủ quan của các nhà nghiên cứu về chúng và có giá trị tự nhiên về mặt nhân
sinh, diễn đạt.
Do đó, từ lâu thành ngữ đã là vấn đề dành được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà ngôn ngữ học. Cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu về thành ngữ ở tất cả các phương diện hình thái cấu trúc, ngữ nghĩa và
văn hóa song công trình nghiên cứu thành ngữ đầu tiên trong tiếng Việt là
“Về tục ngữ và ca dao” của Phạm Quỳnh được công bố vào năm 1921.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Nhưng chỉ từ những năm 60 của thế kỷ 20 dưới ảnh hưởng trực tiếp của
các nhà ngôn ngữ học Nga, việc nghiên cứu thành ngữ học tiếng Việt mới có
được cơ sở khoa học nghiêm túc. Vào năm 1976 tác giả Hồ Lê khi đi vào
nghiên cứu cấu tạo từ tiếng Việt đã nêu ra một vài đặc điểm khái quát về cấu
tạo của thành ngữ. Ông cho rằng “thành ngữ là một tổ hợp từ cố định về cấu
trúc, có nghĩa bóng, được sử dụng để miêu tả những hình ảnh, những hiện
tượng, tính cách hay quan hệ”. Năm 1978, Đái Xuân Ninh đã đề cập tới sự
phân biệt giữa hai đơn vị là thành ngữ và tục ngữ. Sau đó tác giả đã phân loại
thành ngữ dựa trên những đặc điểm ngữ pháp của nó và miêu tả một vài đặc
điểm về nội dung cũng như hình thức của thành ngữ. Cuối cùng tác giả đã nêu
một số nét khái quát về thành ngữ 4 âm tiết như một đặc trưng nổi bật của
thành ngữ tiếng Việt. Cũng trong năm đó Nguyễn Văn Tu đã mô tả một vài
đặc điểm của thành ngữ khi nghiên cứu từ và vốn từ hiện đại.
Trong giáo trình của mình, Đỗ Hữu Châu đã nghiên cứu về ngữ cố
định, bắt đầu bằng việc tìm ra giá trị ngữ nghĩa của ngữ cố định. Và phân loại
ngữ cố định dựa trên sự tương ứng hay không tương ứng với từ sẵn có. Đỗ
Hữu Châu cũng phân loại thành ngữ tiếng Việt thành thành ngữ có kết cấu
câu và thành ngữ có kết cấu cụm từ. Năm 1985, Nguyễn Thiện Giáp cũng đưa
ra quan điểm của mình về thành ngữ và phân loại thành thành ngữ hợp kết và
thành ngữ hòa kết dựa trên cơ chế cấu tạo của nó rồi đưa ra một số đặc điểm
về cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ thông qua việc phân biệt nó với các
thành phần khác.
Những năm gần đây các công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt
xuất hiện ngày càng nhiều như: Thành ngữ học tiếng Việt [13], Thành ngữ
bốn yếu tố trong tiếng Việt [14]… và các cuốn từ điển như: Từ điển thành
ngữ, tục ngữ Việt Nam [5], Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam [21], Từ
điển giải thích thành ngữ tiếng Việt [40], Tân từ điển thành ngữ Việt Nam14
[37]... Ngoài ra còn có các công trình thạc sĩ, tiến sĩ khác như: Bình diện cấu
trúc hình thái ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt [9], Đặc điểm cấu trúc và
ngữ nghĩa của thành ngữ, tục ngữ Nghệ Tĩnh (trong quan hệ với văn hóa địa
phương) [29], Khảo sát thành ngữ trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập [20],
Khảo sát các thành ngữ và tục ngữ xuất hiện trên báo phụ nữ Việt Nam thời
kỳ đổi mới (1985 – 2005) [4]…
Có thể nói nhìn một cách tổng thể, các tác giả đã có rất nhiều đóng góp
quý báu, họ đã có công lớn trong việc khai phá những vấn đề có liên quan đến
thành ngữ và có nhiều phát hiện bất ngờ thú vị. Song có thể thấy khi xã hội
ngày càng đổi mới, sự xuất hiện của các cụm từ cố định mới sẽ ngày một
nhiều hơn. Những cụm từ cố định mới này trải qua một thời gian dài sử dụng,
nó dần dần hội tụ các tiêu chí để được coi là thành ngữ. Trong bối cảnh đó,
việc nghiên cứu những thành ngữ thời hiện đại này càng phải được quan tâm
hơn. Đặc biệt là bình diện nội dung nghĩa của chúng.
Về phía quán ngữ, có thể thấy trong hàng chục đầu sách nghiên cứu về
từ vựng hiện đại chỉ có độ vài ba tác phẩm viết vài dòng về quán ngữ mà thôi.
Nổi bật có các tác giả như Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Hữu
Châu, đặc biệt là Hoàng Trọng Phiến bởi ông là người đã đề cập trực tiếp và
định nghĩa quán ngữ trong công trình của mình như là những gợi mở cho các
hướng nghiên cứu sâu hơn và quy mô hơn. Đặc biệt Hoàng Trọng Phiến đã
liệt kê được gần 500 quán ngữ trong công trình từ điển giải thích hư từ tiếng
Việt của tác giả cũng như Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn
vị nữa trong tác phẩm từ điển nói về công cụ tiếng Việt của họ.
Có thể tìm thấy các nghiên cứu về quán ngữ trong Từ vựng học tiếng
Việt hiện đại [32],Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt [3], Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt [2]… Ngoài ra, còn có các khóa luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ khác cũng đề cập về vấn đề này như: Những quán ngữ có sắc thái tiêu cực
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
trong tiếng Việt [1], Bước đầu khảo sát các quán ngữ trong văn bản khoa học
giai đoạn 1950 – 2000[15], Vai trò của quán ngữ trong việc kiến tạo phát
ngôn (Trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt) [16]…. Đối với hầu hết các tác
giả quán ngữ là ngữ cố định là một kiểu loại của thành ngữ nên họ thường xét
chung với thành ngữ.
Có thể nói từ trước tới nay, các công trình nghiên cứu về thành ngữ,
quán ngữ tương đối nhiều song chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại cũng như những giá trị biểu trưng của nó.
Chính vì vậy thiết nghĩ việc khảo sát thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại và giá
trị biểu trưng của nó là việc hết sức cần thiết. Trước hết ở đây chúng tui sẽ đi
xem xét quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ, quán
ngữ trước khi đưa ra quan niệm của mình. Dựa vào đó, chúng tui đi vào phân
tích đặc điểm cấu tạo cùng nội dung ý nghĩa và giá trị biểu trưng của các
thành ngữ, quán ngữ thời hiện đại này.
1.2.Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ, quán
ngữ
1.2.1. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam về thành ngữ
Thành ngữ là một trong những kho tàng có giá trị về ngôn ngữ - văn
hóa của mỗi dân tộc. Hầu hết các đơn vị thành ngữ đều do nhân dân sáng tác,
được truyền từ đời này sang đời khác nên mang đậm tính chất dân gian và
tính bình dị đời thường. Thành ngữ chứa đựng đầy đủ những đặc tính sáng tạo
của lối nói dân gian. Đó là lối ví von so sánh, mang tính hình tượng, cụ thể,
gợi cảm, lối khoa trương, trào lộng, dí dỏm và tế nhị, lối nói linh hoạt và giàu
nhạc điệu, đồng thời cũng rất giàu hình ảnh, sinh động, cô đọng, hàm súc theo
lối cấu trúc đơn giản nên rất dễ nhớ, dễ thuộc. Do đó thành ngữ được vận
dụng rất nhiều trong cuộc sống một cách nhuần nhuyễn và tự nhiên.16
Trong tiếng Việt thành ngữ có một khối lượng lớn, rất đa dạng và
phong phú. Cùng phát triển với tiếng nói dân tộc, thành ngữ dần dần được
hình thành, được nhân dân sử dụng như một công cụ giao tế chung. Phát triển
thành ngữ là một trong những cách tốt để bổ sung cho vốn từ của một ngôn
ngữ. Xét về mặt tu từ, thành ngữ đã góp phần làm giàu, làm đẹp cho tiếng
Việt về nhiều phương diện.
Mặt khác do hình thành và phát triển trong lịch sử lâu dài của dân tộc,
thành ngữ là những cụm từ cố định hay ngữ cố định, có nội dung ngữ nghĩa
sâu rộng nên nó cũng giữ được nhiều khái niệm thuộc về truyền thống. Những
khái niệm này đã phản ánh nhiều mặt tri thức về giới tự nhiên và đời sống xã
hội của các thời đại đã sản sinh ra nó trên đất nước Việt Nam. Chính vì vậy,
việc sưu tập và nghiên cứu thành ngữ lâu nay đã được nhiều nhà ngôn ngữ
học quan tâm tới. Điều đó cũng thể hiện ở sự đa dạng trong quan niệm về
thành ngữ.
Chẳng hạn theo tác giả Nguyễn Văn Tu: “Thành ngữ là những cụm từ
cố định mà các từ trong đó đã mất đi tính độc lập đến một trình cao, kết hợp
làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do
nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này cũng có tính hình
tượng hay cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những
từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học”. [33,147]
Chẳng hạn, tác giả giải thích thành ngữ mẹ tròn con vuông rất hoàn chỉnh
về mặt kết cấu, trật tự của các từ không sáo trộn được, các từ phải gắn bó với
nhau, nghĩa rất hoàn chỉnh và khác nghĩa của từng từ. Thành ngữ này có nghĩa
người đàn bà mới đẻ không có việc gì xảy ra cả. Việc sinh nở tốt và không gặp
trở ngại gì, mẹ con đều khỏe mạnh. Hơn thế nữa ta cũng không thể bỏ một từ
nào đi được mà cũng không thể thay đổi trật tự của những từ trong đó.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Tu cũng cho rằng: “Một số thành ngữ trong
tiếng Việt có tính chất kiểu điển tích, điển cố nhưng nghĩa điển tích, điển cố
ấy không còn được nhớ lại nữa, thậm chí là những người dùng hiện nay
không cần biết lai lịch của những thành ngữ ấy”. [33,148]
Ví dụ thành ngữ gương vỡ lại lành bắt nguồn từ câu chuyện về Từ Đức
Ngôn trong Bản sự thi: Thời Trần, Từ Đức Ngôn và vợ là công chúa Nhạc
Xương, gặp buổi nhà Trần suy loạn, sợ sau này tình duyên khó vẹn, bèn đập
gương làm hai mảnh, mỗi người giữ một nửa làm tin, hẹn rằm tháng giêng
năm sau đem bán ở chợ. Quả nhiên nhà Trần bị diệt, công chúa Nhạc Xương
rơi vào nhà Dương Tố. Y hẹn, năm sau Từ Đức Ngôn lên kinh thành, thấy
người hầu gái bán nửa mảnh gương, chàng lấy ghép với nửa của mình thấy
vừa khớp, bèn để lên đó câu thơ “Kính dữ nhân câu khứ, kinh quy nhân bất
quy; vô phục Hằng Nga ảnh, không lưu minh nguyệt huy” (gương và người
cùng đi; nay gương về mà người chưa về; chẳng thể tái hiện bóng Hằng Nga;
chỉ còn có ánh trăng xuông mà thôi). Công chúa nhận được gương, khóc lóc
thảm thiết, cơm chẳng muốn ăn. Dương Tố biết chuyện, mời Từ Đức Ngôn
tới và trả công chúa lại cho hai người đoàn tụ.
Từ câu chuyện tình duyên ấy, ở Trung Quốc có câu thành ngữ phá kính
trùng viên dịch là gương vỡ lại lành được dùng để chỉ sự hàn gắn, chắp nối lại
mối tình cũ như Nguyễn Du đã viết:
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ngày nay, ý nghĩa của câu thành ngữ này có thể hiểu rộng hơn. Nó
không chỉ bó hẹp ở sự hàn gắn sứt mẻ trong tình yêu mà còn được mở rộng để
chỉ sự hồi sinh cũng như sự đổi thay của vận mệnh con người, của dân tộc.
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Có đôi khi một thành ngữ lại được tạo lập từ hai tích truyện trong ngữ
liệu tiếng Hán. Ví dụ:18
- Thành ngữ hồng diệp xích thằng trong câu:
Nàng rằng: “Hồng diệp xích thằng”
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Và thành ngữ lá thắm chỉ hồng trong:
Cũng là lá thắm chỉ hồng,
Trăm năm phận gái chữ tòng là đây
(Kim thạch kỳ duyên)
Là những thành ngữ có nguồn gốc từ hai tích truyện đời Đường: “Hồng
diệp đề thi” và “Xích thằng hệ túc”.
Tích truyện thứ nhất, theo Thái bình quảng ký, Vu Hựu tình cờ nhặt
được chiếc lá đỏ (hồng điệp) trôi trên ngòi nước chảy từ cung vua ra, trên có
thơ đề: “Lưu thủy hà thái cấp, thâm cung tận nhật nhàn. Ân cần tạ hồng diệp,
hảo khứ đáo nhân gian” (Nước làm sao mà chảy xiết vậy, trong thâm cung
suốt ngày nhàn. Ân cần tạ lá đỏ, hãy mau trôi tới nhân gian), Vu Hựu lấy
chiếc lá đỏ khác, đề thơ trả lời rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào
cung. Hàn Thị, người thả lá ban đầu lại nhặt được lá. Sau được thải khỏi cung
nàng tình cờ kết duyên cùng Vu Hựu. Nội dung chỉ chuyện tình duyên đôi lứa
không hẹn mà nên.
Tích truyện thứ hai, theo Tục U quái lục, Vi Cố đời Đường nhân dịp đi
chơi đã gặp ông lão ngồi dưới ánh trăng kiểm sách, lưng tựa vào một túi vải
đựng đầy tơ đỏ (xích thằng). Vi Cố hỏi, ông lão bảo đây là văn thư kết hôn
của thiên hạ, còn những sợi đỏ thì dùng để buộc chân (hệ túc) nam nữ. Có dây
đỏ buộc chân, tất sẽ thành vợ chồng. Sau dùng xích thằng hệ túc để chỉ việc
kết duyên vợ chồng.
Như vậy có thể thấy hiện tại khi dùng thành ngữ lá thắm chỉ hồng hay
gương vỡ lại lành, ít người có thể nhớ được điển tích, điển cố của nó.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
Theo Đái Xuân Ninh “Thành ngữ là một cụm từ cố định mà các yếu tố
tạo thành đã mất đi tính độc lập ở mức nào đó và kết hợp lại thành một khối
tương đối vững chắc và hoàn chỉnh”. [24,212]
Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng: “Thành ngữ là những cụm từ cố định
vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm”.[11,77]
Ví dụ:
Lanh chanh như hành không muối; Chó ngáp phải ruồi; Nói thánh nói
tướng; Lừ đừ như ông từ vào đền; Hồn xiêu phách lạc; Giật gấu vá vai; Nhạt
phấn phai hương….
“Khi giáp chiến thì tả xung hữu đột, xông xáo như mãnh hổ về rừng,
đánh mạnh trúng mạnh như sấm như sét, khiến địch hồn xiêu phách lạc,
không thể nào chống đỡ nổi” (Đỗ Tuấn, Kể chuyện tác phong chiến đấu).
“Thiếu gì thì thiếu, mình cũng phải giật gấu vá vai mua cho được con
trâu chớ! Làm ruộng mà không có trâu thì còn ra cái thá gì!” (Nguyễn Lai,
Con trâu lạ)
Bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng đi kèm các sắc
thái bình giá, cảm xúc nhất định hay là kính trọng tán thành, hay là chê bai,
khinh rẻ hay là ái ngại, xót thương…Chẳng hạn như thành ngữ nói thánh nói
tướng vừa chê bai sự “ba hoa, khoác lác” vừa kèm thái độ chê bai không tán
thành như trong: “Cái ông Sỹ nhà các cậu nom xa thì có vẻ hùng hùng hổ hổ,
nói thánh nói tướng, hóa ra dát bỏ xừ” (Báo Văn nghệ, số 6 -11) ; thành ngữ
thắt lưng buộc bụng vừa biểu đạt khái niệm “tiết kiệm, dè sẻn”, vừa thể hiện
cả thái độ tán thành trong “Sau Cách mạng thành công, nhân dân Liên Xô đã
phải thắt lưng buộc bụng, phấn đấu xây dựng ngót mười tám năm mới được
sung sướng như ngày nay” (Hồ Chí Minh, “Tuyển tập”) ; thành ngữ chó cắn
áo rách vừa biểu thị sự không may, vừa bày tỏ thái độ cảm thông ở ví dụ:
“…Cố không gọi quân yểm trợ nhé. Mẹ kiếp, chó cắn áo rách…” (Phan Tứ,
Gia đình má Bảy)20
Nguyễn Lực và Lương Văn Đang đã nêu lên ba đặc tính của thành ngữ
tiếng Việt đó là kết cấu hình thái, đặc điểm ngữ nghĩa và quá trình vận động
sử dụng thành ngữ.
Theo hai tác giả, về mặt kết cấu hình thái, thành ngữ tiếng Việt phổ
biến thuộc loại cụm từ cố định, cũng có thể có thành ngữ tính cố định cao, kết
cấu vững chắc, đạt mức độ một ngữ cố định như: Bắt trạch đằng đuôi; Mèo
mù vớ cá rán; Cõng rắn cắn gà nhà; Hùm tinh đỏ mỏ… Nếu đem thay đổi trật
tự, vị trí từ, thay từ đồng nghĩa hay một từ loại tương đương, thì lập tức kết
cấu bị phá vỡ, ý nghĩa bị xuyên tạc và không còn giá trị của một thành ngữ
nữa. Do vậy không phải bất cứ cụm từ cố định hay một ngữ cố định nào cũng
có thể trở thành thành ngữ như: Gia đình văn hóa; Gia đình vẻ vang….
Thêm vào đó, Nguyễn Lực và Lương Văn Đang cũng chỉ ra rằng bên
cạnh kết cấu hình thái còn cần xem về mặt biểu hiện nghĩa của thành
ngữ. Hai tác giả nhấn mạnh đến phần quan trọng của nghĩa bóng. “Nghĩa này
có tính khái quát tượng trưng cho toàn bộ tổ hợp, tuy thế, nó không phải là
tổng số nghĩa của các thành tố cộng lại. Có người xem nghĩa của thành ngữ có
tính chất biểu trưng. Khi nói nghĩa bóng là nói chung nhiều cách biểu
hiện nghĩa của thành ngữ như ẩn dụ, hoán dụ, khoa trương, so sánh, hình
tượng….” [23]. Song dù nhận định rằng nghĩa bóng là đặc tính bản chất của
thành ngữ, nó góp phần xem xét một cụm từ cố định có trở thành thành ngữ
hay không nhưng Nguyễn Lực và Lương Văn Đang cũng lưu ý rằng các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ không nên tuyệt đối hóa vấn đề này bởi trong tiếng Việt
có rất nhiều các thành ngữ như: Nát như tương; Nát như cám; Nhà ngói cây
mít; Nhà tranh vách đất; Tay chai vai mòn… Những thành ngữ này vẫn còn
sử dụng nghĩa thưc, nghĩa đen bên cạnh việc sử dụng nghĩa bóng hay nghĩa
bóng của thành ngữ chưa khác nghĩa gần bao nhiêu.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi21
Ngoài ra, hai tác giả còn cho rằng việc xem xét quá trình vận động và
sử dụng thành ngữ tiếng Việt là một vấn đề phức tạp. Chính mặt này đã tạo ra
những quan hệ ngữ pháp của thành ngữ.
Ví dụ:
Hạ cánh an toàn; Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực; Cầm đèn chạy trước ô tô;
Hy sinh đời bố củng cố đời con; Nghiêng đồng đổ nước ra sông; Vắt đất ra
nước, thay trời làm mưa…
Hoàng Văn Hành thì cho rằng: “Theo cách hiểu thông thường nhất thì
thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái cấu trúc, hoàn
chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày,
đặc biệt trong khẩu ngữ”. [13,27]
Ví dụ: Lẩn như chạch ; Nằm gai nếm mật; Tham vàng bỏ ngãi; Đầu cua
tai nheo….
“Chín năm nằm gai nếm mật đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ,
lừng lẫy toàn cầu” (Nguyễn Khải, Hòa Vang).
“Từ đó những kẻ ăn ở hai lòng, tham vàng bỏ ngãi, bán dân hại nước
đều biến thành kiếp vượn khóc bơ vơ” (Lê Khâm, Trước giờ nổ súng).
“Nó nói đủ chuyện đầu cua tai nheo, mình ngồi uống nước mãi đã chua
cả bụng, mà vẫn không thấy nó đả động gì đến tiền nong cả” (Nguyễn Đình
Thi, Vỡ bờ)
Theo đó, tính cố định về hình thái, cấu trúc của thành ngữ được thể
hiện ở hai đặc điểm chính. Một là thành phần từ vựng của thành ngữ nói
chung là ổn định. Điều đó có nghĩa là các yếu tố tạo nên thành ngữ hầu như
được giữ nguyên trong sử dụng mà trong nhiều trường hợp không thể thay thế
bằng các yếu tố khác. Hai là thể hiện ở sự cố định về trật tự các thành tố tạo
nên thành ngữ
Đến thời kỳ mở cửa, xã hội phát triển, nền kinh tế thị trường có định
hướng đã mang lại những thay đổi rõ rệt. Người dân bắt đầu chú ý đến cạnh
tranh kinh tế, mang lại lợi nhuận bằng việc nhất giá nhì mẫu mã, đối xử với
khách hàng như với thượng đế… Người dân còn biết đầu tư vào lĩnh vực bất
động sản để làm giàu: Mua vàng thì lỗ, mua thổ thì lời. Chính cuộc sống phát
triển tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… đã dẫn đến
tình trạng người dân tại các vùng cùng kiệt đói, xa xôi đổ xô về mong kiếm
miếng cơm manh áo. Cuộc sống chật chội đã khiến cho nhà nước phải tìm
cách giải tỏa, quy hoạch lại đô thị: Đền bù đến đâu, giải tỏa đến đó; Giao
thông đến đâu, tiền thông đến đó… Song đôi khi do vấn đề giải tỏa, đền bù
không được thuận lợi, không đảm bảo được lợi ích của người dân, dẫn đến
bức xúc đền bù trả thù doanh nghiệp.
Xã hội phát triển cũng dẫn đến hình thành một thế hệ gà công nghiệp
thường xuyên thất bại vì ngại thành công hay sống vô cảm, một con ngựa đau,
cả tàu được ăn cỏ, sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ, chạy theo mốt, chạy theo
thời thường để thỏa mãn mong muốn của mình.
Có thể nói như vậy mọi vấn đề trong cuộc sống thời hiện đại đều được
phản ánh rõ nét qua thành ngữ, quán ngữ mới này. Tìm hiểu về những thành
ngữ, quán ngữ này sẽ giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về những năm
tháng đã qua, đưa ra được bức tranh toàn cảnh về xã hội lúc bấy giờ… Do đó,
việc nghiên cứu về những thành ngữ, quán ngữ này có tính thời sự, ý nghĩa
lịch sử và giá trị tinh thần sâu sắc.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top