maithu99

New Member

Download miễn phí Chuyên đề Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp





MỤC LỤC

 

A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2

B. NỘI DUNG 3

I.CƠ SỞ LÍ LUẬN 3

1.Vị trí của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường 3

2. Nguyên tắc thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường 4

3. Tác động kinh tế - xã hội của phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường 5

4 . Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 5

II. THƯC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHÂP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 8

1. Thực trang và giải pháp tiền lương ở nước ta 8

2. Thực trạng và các giải pháp về lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam 19

3. Thực trạng và giải pháp về địa tô 22

III. .NHỮNG KIẾN NGHỊ CHUNG VỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM 23

C. KẾT LUẬN 26

TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ới một số đối tượng chính sách xã hội.
- Tháng 5.1993,Đảng,Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương, ban hành hệ thống lương mới theo hướng , thiết lập hệ thống tiền lương theo hệ số với mức lương tối thiểu la 120000 đồng/tháng, tương đương vói 60 kg gạo đảm bảo cho mỗi người 2100 calo/ngày... nhưng mức lương tối thiểu này không thể duy trì được năng lực lao động cho banr thân người lao động chưa nói gì tới việc nuôi con cái và học hành. Do đó đầu năm 2000, Nhà nước đã nâng mức lương tối thiểu lên 180000 đồng/tháng, đến năm 2001, mức lương này được nâng lên 210000 đồng/tháng, năm 2003 nâng lên 290000 đồng/ tháng, năm 2006 là 360000 đồng/tháng, năm 2007 là 450000 đồng/ tháng, năm 2008 là 540000 đồng/tháng. Sở dĩ phải nâng mức lương tối thiểu lên một cách liên tục là để bù vào sự trượt giá vào lương nhằm đảm bảo lương thực tế cho người lao động
Ngoài việc tiền lương thực tế bị hạ quá thấp, hệ thống tiền lương còn bộc lộ sự chênh lệch bất hợp lí giữa lương của các loại lao động, của các ngành nghề các đơn vị khác nhau. thí dụ có trương hợp thu nhập của lao động giản đơn cao hơn thu nhập của lao động phức tạp; thu nhập của doanh nghiệp trung ương cao hơn thu nhập của doanh nghiệp đia phương... Điều này được phản ánh qua số liệu diều tra về tiền lương của 637 doanh nghiệp do sở lao động thương binh xã hội thành phố Hồ Chí Minh tiến ành năm 1999: doanh nghiệp Nhà nước trung ương 1,5-1,9 triệu đồng/ người/ tháng, con số đó đối với các doanh nghiệp thành phố là 1-1,5; doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện là 0,6-0,8, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài la 0,975, đơn vị hành chính sự nghiệp là 0,6-0,8.
Tính chung từ năm 2003-2007 đã qua 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu bình quân tăng 38,2%, trong khi giá tiêu dùng tăng 6,8%/năm, GDP bình quân tăng 7,96%/năm, giá tiền công bình quân tăng 10%/năm.
Về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp, qua điều tra 1000 donh nghiệp, 10000 lao động thuộc 12 tinh thành phố trực thuộc trung ương cộng với số liệu của các tổng công ty hạng đặc biệt, các tập đoàn kinh tế đạt gần 4 triệu đồng/tháng, trong doanh nghiệp doanh dân đạt 1,85 triệu đồng/tháng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2,5 triệu đồng/tháng. Có một thực tế là tiền lương thấp nhất bình quân thực trả cho các doanh nghiệp năm 2007 đều cao hơn so với qui định của Nhà nước khoảng 1 triệu đồng/tháng.
Theo Vụ Tiền lương, tiền công( Bộ LĐTB&XH), mức lương tối thiểu nói chung còn thấp, chưa đạt mục tiêu đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp chưa được điều chỉnh theo nguyên tắc thị trường , cơ bản vẫn phụ thuộc ngân sách nhà nướ, ngoài ra đó là sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp tạo ra sự chênh lệch, không bình đẳng. Hệ thống bảng lương của công ty nhà nước chưa trở thành thước đo giá trị để trả lương cho người lao động mà chỉ là cơ sở dể hưởng đống bảo hiểm xã hội.
Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, mới chỉ có khoảng 305 đăng kí bảng lương theo qui định, nhiều doanh nghiệp chỉ đăng kí để đối phó, xây dựng bảng lương không theo qui định, kéo dài số bậc lương, có trường hợp tới hơn 40 bậc lương, khoảng cách bậc lương quá thấp chỉ khoảng 2-3%, gây thiệt thòi cho người lao động. Cơ chế phân phối tiền lương của doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường , quan hệ phân phối giữa người có tiền lương cao nhất và thấp nhất chỉ khoảng 5-6 lần, trong khi đó trên thị trường chênh lệch hàng chục lần, thâm chí có những ngành dịch vụ khoảng cách này là 50-60 lần.
Vụ Tiền lương, tiền công cho rằng tình trạng thiếu cơ chế phù hợp để điều tiết các yêú tố lợi thế ngành nghề khi xác định tiền lương dẫn đến nhiều công ty nhà nước lương cao không phải do năng suất lao dộng và hiệu quả kinh doanh. Tại nhiều doanh nghiệp nhà nước, vẫn ép mức tiền công của người lao động, nhất là những ngành sử duụng lao động trình độ chuyên môn không cao như da giày, dệt may, chế biến... Một số doanh nghiệp có lợi dụng chia thu nhập của người lao động thành phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng để trốn đóng bảo hiểm xã hội , không đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Về cơ chế chính sách tiền lương. nhà nước trực tiếp định mức lao động định mức tiền lương, duyệt quĩ lương , qui định thang lương , bảng lương bậc, bậc lương cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thúc hiện chuyển sang một cơ chế mới, trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông só để tính toán, nhà nước chỉ không chế lương tối thiểu, không khống chế thu nhậo tối đa.
Trong khu vực hành chính sự nghiẹp, tiền lương vẫn thực hiện theo nghi định 235/HĐBT. đồng thời nhà nước cho phép các cơ quan thuộc lĩnh vực này được hoạt động dịch vụ đời sống để tăng thêm thu nhập
Các cơ quan nghiên cứu khoa học ngoài phần ngân sách nhà nước cấp , được trục tiếp kí hợp đồng với các cơ quan đơn vị có nhu cầu để tăng thêm thu nhập.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước , cố lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở kinh tế , có lĩnh vực chưa chuyên lập như cơ chế kiểm soát và diều tiết tiền lương, thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyên sang kinh doanh,...
Trong các đơn vị sản xuát kinh doanh vẫn đồng thới tồn tại song song hai kiểu hạch toán : tổng doanh thu trừ tổng chi phí và đơn giá tiền lương trên đơn sản phẩm. Kiểu hạch toán này dẫn đến lãi thì xí nghiệp hưởng , lỗ thì Nhà nước chịu.
Chính sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn, sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm manh và giảm liên tục. Trên thực tế diễn ra tình trang tốc đọ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá.
Từ năm 1993 đến nay, mức tăng giá đã tăng 1,79 lần, mức tăng GDP là 2,21 lần, mức tăng dân số là 1,15 lần.nếu tính ra mức tăng lương phải đạt 3,42 lần mới có thể tương đương với mức tăng giá và tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. nhưng nếu tính cả mức tăng lương vao 1/10 sắp tới thì chỉ đạt 2,42 lần thấp hơn con số 3,42 nêu trên là 17%. Như vây tính trên mặt bằng kinh tế chung thì người làm công ăn lương đã nói chung bị thiệt. Vấn đề đặt ra ở đây là cứ khi nao tăng lương thì giá cả lại tăng trước. tinh từ năm 1993 nước ta đã thực hiện 5 lần tăng lương, trung bình mỗi lần khoảng 20%, mức tăng này thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát tính từ lần tăng trước nhưng lại cao hơn gáp 2 lần mức tăng trưởng cộng với lạm phát năm trước đó.
Trước tình hình biến động của giá làm cho tièn lương thực tế , đời sống dân cư ngày càng sa sút đã gây ra phản ứng của các đối tượng trong xã hội . cu thể như sau:
- ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che chắn, kiểm soát liên tục, nhưng các nhà nước địa phương đã có nơi tự ý định lại mức lương tối thiểu ví dụ Long An nâng lên 2 lần , Vũng Tau nâng lên 1,5 lần ... không theo chính sách chung
- ở các đơn vị sản xuất - kinh doanh; dựa vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và những sơ hởcủa cơ chế quản lí đang trong bước giao thời, đều tìm mọi cách tăng thu nhập cho mình. Nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao.
Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh,có thể phâ ra 3 loại xí nghiệp:
+ loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi , có điều kiện phát triển chưa nhiều .
+ loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh. điều đáng quan tam là khi thu nhập của họ quá cao cũng không bị điều tiết.
+ Loại xí nghiệp ở trang thái bấp bênh, nay lãi, mai lỗ ,sản xuất không ổn định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ mà thu nhập của người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách không chính đáng.
+ Loại xí nghiệp lam ăn thua lỗ liên tục, thiếu việc làm, có nguy cơ giải thể , thu nhập của người lao động thực chát là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài sản bị khánh kiệt, nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư doanh.
+ ở các đơn vị hành chính sự nghiệp: phải thực hiện theo Nghị định 235/HĐBT nhưng lại được nhà nước cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời sống đủ loại để tăng thu nhập.
toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch về thu nhập rất lớn .
+ ngoài cán bộ công nhân viên chức nhà nước trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước qui định là 22.500đ/tháng , thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho lao động bình thường từ 3000-5000đ, lương kĩ thuật15000-20000đ/công. trong khi Nhà nước qui định tiền lương tối đa bằng 3,5 lần tiền lương tối thiểu, thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần. đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hóa hoàn toàn và đã tính đến quan hệ cung cầu về lao động
Ngoài những phản ứng trên, nhà nước còn thực hiện sự phân phối gián tiếp qua ngân sách cho công nhân viên chức. ví dụ vấn dề phân phối nhà ở tuy đã có quyết định 150/ CP, nhưng khi thực hiện lại rất tùy tiện;chế độ trang cấp đồ dùng gia đình, chế độ chi cho phương tiện, thì tùy từng địa phương , từng đơn vị cũng thực hiện khác nhau không thông nhất.
Từ sự phân tích khái quát cho phép chúng ta rút ra một số kết ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
L Quản lý và phân phối thu nhập tại Xí nghiệp Cơ khí Thủy Mạo Khê - Đông Triều - Quảng Ninh Luận văn Kinh tế 0
T Đề án Trình bày phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt N Luận văn Kinh tế 0
T Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Khoa học Tự nhiên 0
N Kế toán doanh thu và phân phối lợi nhuận trong công ty khách sạn du lịch Kim Liên Luận văn Kinh tế 0
A Phân phối thu nhập trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội Kinh tế chính trị 0
C Phát triển kênh phân phối tại công ty cổ phần Việt Tinh Anh nhằm nâng cao doanh thu bán hàng cho dòng đồ chơi nhập khẩu Lego Luận văn Kinh tế 2
G Chính sách phân phối thu nhập cá nhân ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Phân phối thu nhập ở Malaixia và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam Luận văn Kinh tế 2
D [Free] Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tài liệu chưa phân loại 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top