Mr_Vovi

New Member

Download miễn phí TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH – XU THẾ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH CHO NGÂN HÀNG Việt Nam THỜI KỲ HẬU WTO





- Chia thực trạng vấn đề tự do tài chính theo chiều ngang: Từ sau khi có Luật đầu tư nước ngoài tại VN lần đầu tiên năm 1988 đến nay, về cơ bản Việt nam là một nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu. Đến Đại Hội IX của Đảng năm 2001 đã coi “khu vực có vốn đầu tư nước ngoài” là một trong 6 thành phần kinh tế chính thức của Việt nam. Tốc độ đầu tư vào tuy không đều qua các năm, nhưng đã hình thành một xu hướng tăng liên tục. Đặc biệt là từ đầu năm 2007 đến nay sau khi VN trở thành thành viên WTO thì tốc độ gia tăng đầu tư nước ngoài vào VN đã rất mạnh trở lại so với những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước và ở qui mô cao hơn. Tổng vốn luỹ kế đầu tư trực tiếp vào VN đã lên đến trên 50 tỷ USD – Trong đó, chỉ riêng lượng vốn đổ vào trong vòng 1 năm qua đã chiếm tới 40%. Bình quân 10 năm lại đây, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã: Tạo ra trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm; Sử dụng gần 10% lao động công nghiệp; Tham gia hơn 20% tổng đầu tư toàn xã hội bình quân/năm.Đã trực tiếp góp phần làm cho nền kinh tế VN tiếp cận với công nghệ và trình độ quản lý hiện đại của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, qua những diễn biến “nóng, lạnh” trên TTCK thời gian qua cũng đã thông báo cần có những giải pháp thận trọng trong quá trình từ tự do hoá tài khoản vãng lai đến tự do hoá tài khoản vốn.





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


giá cả...
Từ các tiếp cận nói trên, hiểu thế nào về “tự do hoá” tài chính? Hay nói khác đi: trong toàn bộ nội hàm của phạm trù “tài chính” hiện nay ở Việt nam, những gì cần “hoá” từ chưa tự do, hay từ tự do ít sang các mức độ tự do nhiều hơn khác nhau? Lộ trình nào cho những vấn đề của tài chính có mức độ rủi ro khác nhau trong tiến trình tìm cho những cái đang còn bị trói một con đường ngày càng được tự do nhiều hơn?
Có thể nói ngay rằng cụm từ “tự do tài chính” bao giờ cũng được đặt trong một quan hệ tỷ lệ hay khuôn khổ giới hạn nhất định theo những điều kiện về không gian, thời gian của một nền kinh tế nhất định. Do vậy, các mức độ tự do tài chính xét trong những điều kiện kinh tế, không gian, thời gian khác nhau là không giống nhau. Tuy nhiên, với các lĩnh vực khác nhau, ở các bộ phận khác nhau của thị trường tài chính thì luôn có những nhóm quan hệ lợi ích được đặt trong những thứ bậc khác nhau về mức độ tự do. Các mức độ tự do luôn có xu hướng bị ràng buộc dần (về giá, về lượng, về chủng loại sản phẩm, về loại Định chế tham gia cung ứng sản phẩm và về quan hệ sở hữu Công ty hay Định chế tài chính) theo qui luật về giới hạn giảm dần của lợi ích trong quá trình chia sẻ lợi ích, hay còn gọi là qui luật va đập hay xung đột lợi ích mạnh dần và rủi ro tăng dần - Các quan hệ kinh tế nào càng kỳ vọng có lợi ích cao hơn hay ở những qui mô lớn hơn thì rủi ro cũng sẽ cao hơn cho một trong 2 bên hay chung cho nền kinh tế và do đó, mức độ ràng buộc thông thường càng phải chặt chẽ hơn. Chỉ có trình độ quản trị, kiểm soát, tính minh bạch của Pháp luật và công nghệ càng cao mới có điều kiện để càng nới lỏng các ràng buộc tạo điều kiện cho tổng lợi ích thu được là lớn hơn các rủi ro có thể phát sinh trong các quá trình nới lỏng đó. Có thể tạm phân loại các mức độ “tự do” từ cao xuống thấp bao gồm các thang bậc ràng buộc sau đây: Tự nguyện=>thoả ước=>thoả thuận=>cung cầu=>Pháp lý.
Từ cách tiếp cận nói trên, xét các mối quan hệ lợi ích nói chung và trên thị trường tài chính nói riêng dù bao gồm các quan hệ, các nhân tố đan xen vô cùng phức tạp, chúng ta vẫn có thể “phân tổ” thành những thang bậc khác nhau cho những nhóm quan hệ lợi ích theo những đẳng cấp khác nhau mà giữa các nền kinh tế thị trường khác nhau chỉ khác nhau về qui mô và hình thức biểu hiện. Có thể đưa ra những ví dụ minh hoạ đơn giản dưới đây:
- Người có tiền luôn có quyền tự mình tìm nơi sử dụng hay đầu tư vào nơi có lợi nhất như: trực tiếp chuyển vào sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng hay gián tiếp đầu tư vào nhà băng, vào thị trường tài sản, hay vào TTCK...Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ tự nguyện – mang lại lợi ích có tính cục bộ, cá nhân, đơn vị song rất có thể gây tác hại nhiều hơn cho qui mô nền kinh tế nếu các cá nhân, đơn vị không tuân thủ “luật chơi” chung...
- Người, hay tổ chức tham gia vào các quan hệ buôn bán xuất – nhập khẩu qua biên giới, hay tham gia mạng thanh toán quốc tế...có quan hệ thanh toán tuân theo các nguyên tắc giao dịch trên tài khoản vãng lai cho phép chuyển đổi tự do ngay cả khi không có sự đồng nhất về đồng tiền giữa các bên tham gia...Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ thoả ước – Tự do hoá tài khoản vãng lai chủ yếu phản ánh mức độ tự do hoá quan hệ tỷ giá hay quan hệ về qui ước chọn đồng tiền thanh toán thứ 3 trên tài khoản và hay trao đổi mậu dịch, phi mậu dịch ở vùng biên giới giữa các quốc gia theo thoả ước;
- Cá nhân hay tổ chức xúc tiến đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp vào hay ra từ một nước đến một nước hay tổ chức quốc tế khác bao giờ cũng phải tuân thủ các ràng buộc thông qua một Hiệp Định khung và các ràng buộc trong đàm phán mà hai bên cùng tìm thấy lợi ích trước, trong và tương lai của quá trình thực hiện đầu tư...Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ thoả thuận...Các qui tắc của WTO hay của khối kinh tế chung hay của các Hiệp Định song phương liên quan đến tài chính là những ví dụ cho tài chính tự do ở cấp độ thoả thuận.
- Trên thị trường tài chính, hầu hết các giao dịch về số lượng và giá cả như lãi suất, lợi tức, tỷ giá, phí...đều được hình thành bằng cơ chế thị trường, chịu sự tác động trực tiếp của các qui luật thị trường...Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ cung-cầu – Rộng nhất, phức tạp nhất và rủi ro cũng cao nhất.
- Trong tất cả các cấp độ tự do nói trên đều phải chịu sự ràng buộc ở mức độ khác nhau theo cơ chế và Pháp luật quốc gia và quốc tế, đặc biệt là Luật khuyến khích cạnh tranh hay Luật chống độc quyền để can thiệp vào sự “quá khích” về quyền “tự do” của các bên quan hệ lợi ích ở mọi cấp độ tự do (nhất là ở cấp độ tự do cung – cầu)...Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ Pháp lý. Trình độ quản trị, công nghệ và tính chất thị trường ở nền kinh tế nào càng thấp thì sự can thiệp của Pháp luật phải càng cao – Nghĩa là mức độ tự do tài chính càng thấp - Đó cũng là biểu hiện của qui luật về sự giới hạn của quá trình “tái phân phối lợi ích”.
Như vậy, tui cho rằng: “tự do hoá” tài chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia thị trường cho các bên kiếm tìm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của Pháp Luật. Cùng với Pháp Luật, cần và phải có các công cụ kiểm soát, giám sát khả thi thích ứng để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc và minh bạch. Điều đó cũng có nghĩa: không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế quốc tế nào. Sự khác nhau nếu có, chỉ là ở qui mô, mức độ hay trình độ kiểm soát, giám sát tài chính mà thôi. Tự do hoá tài chính chia theo chiều ngang: có tự do hoá tài chính trong nước và tự do hoá tài chính giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới; Chia theo chiều dọc, thì tự do hoá tài chính chủ yếu hàm ý tự do hoá trên thị trường tiền tệ và tự do hoá trên thị trường vốn.
Vậy Thực trạng, xu thế và giải pháp chính sách nào cho vấn đề tự do hoá tài chính ở Việt nam nói chung và Ngân hàng Việt Nam nói riêng?
- Trước hết bằng cách “chia” theo chiều dọc: Thị trường tài chính (TTTC) VN gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường này đã trải qua một quá trình tự do hoá dần dần từ những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 khi ngành Ngân hàng chuyển sang mô hình 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường. Quá trình đó biểu hiện qua các động thái nới lỏng quan hệ lãi suất từ áp đặt sang “trần-sàn”, đến khống chế trần và cuối cùng là thoả thuận; Là quá trình thay đổi từ tỷ giá cố định, sang tỷ giá cố định có điều chỉnh..., đến công bố tỷ giá theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường; Là quá trình từ “phân phối” tín dụng cho một số ít đối tượng khách hàng đến tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế, từ tín dụng đan xen đến tín dụng tách bạch chính sách với thị trường để mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế; Là quá trình từ Nhà nước độc quyền mở Ngân hàng đến Ngân hàng của mọi thành phần kinh tế, kể cả loại Ngân hàng được sở hữu bởi nhân tố nước ngoài; Là quá trình ngành Ngân hàng độc quyền cung ứng dịch vụ tín dụng, thanh toán...đến một thị trường tài chính đa ngành cùng tham gia cung ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế v.v. Trên thực tế, chưa bao giờ thị trường tài chính Việt nam sôi động như giai đoạn từ tháng 5/2006 đến hết tháng 2/2007 – Trong đó, tâm điểm là TTCK với mức “tự do” hầu như ở đỉnh cao nhất – Người có tiền, Công ty, Doanh nghiệp có “hàng” – Chủ yếu là hàng cổ phiếu cả ở thị trường có tổ chức lẫn TTCK tự do phi tập trung đã “đồng loạt” tăng nhiệt độ cho thị trường vốn! Dưới hình thức “tăng vốn điều lệ”, cùng với một tiềm năng “cầu” khá lớn (so với tổng số hàng hoá còn khan hiếm ban đầu), TTCK VN đã tạo điều kiện “vàng” cho nhiều Công ty, DN, NHCP gần như “tay không bắt giặc” từ các nguồn lực trong xã hội để nâng chênh lệch vốn thực lên nhiều lần. Lẽ ra, đây phải là tín hiệu đáng mừng và là thiên chức số 1 của TTCK. Để ý rằng trong một Hội thảo khoa học về phát triển thị trường tài chính VN hồi cuối năm 2005, nhiều diễn giả và đại biều tham gia đã dự báo được coi là lạc quan rằng: tổng doanh số trên TTCK sơ cấp vào cuối năm 2006 có thể “lên tới” 10-12% GDP, nhưng đến cuối 2006 con số thực tế đã lớn gấp hơn 3 lần con số dự báo lạc quan đó. Tuy nhiên, do “thành tựu” này đã diễn ra trong một thời gian cực ngắn - Mỗi lần “đóng thầu” tăng vốn ở thị trường sơ cấp là mỗi lần Công ty phát hành “cầm chắc” một lượng giá trị phát hành chứng khoán vốn giá cao (so với mệnh giá), vô danh, vô thời hạn...bỏ lại cho thị trường thứ cấp những cuộc “chạy tiếp sức” với nhiều phen tăng nhiệt đến khó tin, bất chấp đích thực Công ty phát hành sơ cấp yếu hay khỏe, lợi nhuận thấp hay cao, tương lai tối hay sáng...thì hiện tượng trên đáng phải báo động hơn là đáng mừng. Thậm chí có cả loại Công ty “chưa kịp cất tiếng khóc chào đời” cũng “bán hàng sơ cấp gọi vốn” trên thị trường tự do! Chỉ số chứng khoán VN- INDEX từ tháng 5/2006 đến 2/2007 đi lên gần như “một mạch” từ dưới 350 lên trên 1.200! Đến tháng 3/2007 may mà, TTCK bắt đầu “tỉnh ngộ”, tự điều chỉnh lại làm cho nhiệt độ cổ phiếu chuyền nhiệt dần cho các thị trường k...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
E Tự do hoá tài chính lý luận, kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam Luận văn Sư phạm 2
V Tiến trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 2
H Công tác quản lý tài chính theo mô hình tự chủ tài chính tại trường cao đẳng Văn hoá nghệ thuật và D Tài liệu chưa phân loại 0
A Nâng cao năng lực tự học cho học sinh chuyên Hoá học bằng tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun - Tài liệu chưa phân loại 0
L Tự do hoá dòng vốn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh tài chính quốc gia tại Luận văn Kinh tế 0
K Đề tài Tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0
B Những cơ hội và thách thức cho lộ trình tự do hoá dịch vụ tài chính Tài liệu chưa phân loại 0
O Đề tài Tự do hoá thương mại nông sản và vấn đề bảo hộ nông sản hàng hoá Việt Nam trong tiến trình gi Tài liệu chưa phân loại 0
T Tự do hoá dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam Tài liệu chưa phân loại 0
H Một vài tài liệu bên tự động hoá Sinh viên chia sẻ 3

Các chủ đề có liên quan khác

Top