haru_moon

New Member

Download miễn phí Đề tài Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang





 

ĐẶT VẤN ĐỀ

 NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ

 Phần thứ nhất

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.

II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội .

III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách Nhà nước.

 Phần thứ hai

TÌNH HÌNH VỀ TỰ NHIÊN- KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THƯC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG

I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang.

II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 1997- 1999.

III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy năm qua.

 Phần thứ ba

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NSNN CỦA TỈNH HÀ GIANG

I. Phương hướng, mục tiêu chung.

II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang

 Kiến nghị và kết luận.

I. Kiến nghị

II. Kết luận.

 Danh mục tài liệu tham khảo

 

 

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


đồng, chì, sắt, vàng, nước khoáng... khoáng sản có nhiều triển vọng nếu được đầu tư thăm dò khai thác thích hợp.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang
* Dân số và lao động: Dân số toàn tỉnh tính đến 1/4/1999 có: 60,268 vạn người với 22 dân tộc, trong đó 90% là đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Mông chiếm 31,3%; Tày 26,5%; Dao 15,3%; Kinh 11,8% còn lại các dân tộc ít người khác.
Hà Giang có 9 Huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ, trong đó có 7 Huyện vùng cao biên giới thì có 4 huyện đặc biệt khó khăn trong 9 Huyện khó khăn nhất cả nước. Hiện nay toàn tỉnh có 128/191 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn (vùng III).
* Về sự phân vùng kinh tế:
Xuất phát từ điều kiện, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang hình thành làm 3 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có các tiềm năng thế mạnh khác nhau:
- Vùng cao núi đá gồm 4 huyện phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ. Đây là vùng khó khăn nhất so với cả nước. Diện tích toàn vùng này là 2.353 km2, độ cao trung bình: 1000 - 1600m; Dân số: 203.027 người, khí hậu đất đai phù hợp với trồng cây ôn đới, dược liệu. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng ngô một vụ trên đất hốc đá, chăn nuôi là bò, ngựa, dê, ong và gia cầm. Trong vùng có tiềm năng về khoáng sản.
Khó khăn lớn của vùng: Khí hậu khắc nghiệt của mùa đông kéo dài, nhiệt độ thấp 5 - 100C, có năm tuyết rơi, sương muối ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nghiêm trọng nhất là trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 - 80 USD/người/năm. Tỷ lệ người mù chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm trở, diện tích canh tác manh mún, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện tích vùng này là 1460 km2, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số: 105.083 người, khí hậu thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây công nghiệp như chè, thông nhựa, trẩu, đậu tương... cây lượng thực chính là lúa, ngô, chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, ngựa, dê... và gia cầm.
Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao thông dễ sạt lở và sinh lầy trong mùa mưa lũ. Thu thập bình quân 80 -90 USD/người/năm, về văn hoá xã hội cũng khó khăn tương tự như vùng cao.
- Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km2, độ cao trung bình 100 - 500 m; dân số: 294.574 người. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt đới phát triển như cam, quýt, dược liệu, cây công nghiệp như chè, cà phê, quế, dâu tằm, đậu tương, lạc... cây lương thực chủ yếu là lúa nước, ngô. Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong vùng có cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá với Trung Quốc, có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thương mại, dịch vụ...
Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân ở mức 100 - 130 USD/người/năm. Hầu hết hệ thống thuỷ lợi, kênh mương chưa được kiên cố hoá.
* Thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh trong những năm vừa qua:
- Một số kết quả chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong đó vấn đề quan trọng có tính chiến lược lầu dài là chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế Tỉnh đã phát huy được cơ bản các thành phần kinh tế tham gia trong sản xuất kinh doanh, khẳng định hộ nông dân là một đơn vị tự chủ trong kinh tế... đồng thời đã thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là Nghị quyết 22 NQ Trung ương của Bộ Chính trị, và Nghị quyết 72CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về một số chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, các Quyết định 327CP về sử dụng đất trống đồi núi trọc, và các chính sách vay vốn, trợ giá trợ cước vận chuyển và đảm bảo các hàng thiết yếu cho miền núi, chương trình 06CP về không trồng thuốc phiện và cai nghiện ma tuý; chương trình y tế và giáo dục VHXH đã trực tiếp thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương.
Về sản xuất: Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh phát triển tăng dần, đã duy trì nhịp độ tăng trưởng GDP từ 9 - 10,0% ( Năm 1994 GDP tăng 9,1% thì năm 1999 tăng 10,3%). GDP bình quân đầu người tăng từ 685.000 đồng năm 1994 lên 1.535.000 đồng năm 1999, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế nông lâm nghiệp lạc hậu mang tính tự cấp tự túc của những năm trước đây thì vài ba năm nay sản xuất hàng hoá đã bắt đầu phát triển, đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng.
+ Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp trong GDP giảm từ 63% năm 1994 xuống còn 61,8% năm 1995 và đến năm 1998 là 52,60%, năm 1999 là 51,46%. Nông lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, nhiều giống cây, con có chất lượng và năng suất cao được đưa vào sản xuất đại trà, việc đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 14,5 vạn tấn năm 1994 lên 18,4 vạn tấn trong năm 1999 tăng gần 4 vạn tấn. Chăn nuôi phát triển khá năm sau đều tăng hơn năm trước từ 4 - 5% năm.
+ Tỷ trọng ngành công nghiệp + xây dựng từ 17,02% năm 1994 lên 21,3% năm 1999. Trong công nghiệp từ chỗ hầu như chưa có gì, sản xuất quy mô thiết bị nhỏ bé lạc hậu nay đã bắt đầu được mở mang xây dựng phát huy tác dụng như: Nhà máy Xi măng 4 vạn tấn/năm, dây truyền Nhà máy gạch 15 triệu viên/năm, nhiều cơ sở chế biến chè, chế biến nông sản thực phẩm.. ra đời thu hút sản phẩm nông nghiệp và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nguồn điện lưới đã tới 10/10 huyện, thị trên toàn tỉnh...
+ Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 19.9% năm 1994 lên 27,13% năm 1999. Các hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiền tệ tín dụng cơ bản đáp ứng được các nhu cầu, phát triển cho các thành phần kinh tế thu ngân sách tăng từ 24 tỷ đồng năm 1994 lên 64 tỷ đồng năm 1999... Giá trị hàng hoá xuất khẩu và có tính chất xuất khẩu đạt 6,1 triệu USD/năm...
+ Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đã có bươc phát triển khá về số lượng chất lượng, góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đang từng bước được nâng cấp, mở rộng nhựa hoá. Đến nay có 232 km đường quốc lộ và 91 km đường tỉnh lộ được nhựa hoá. Đường cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, cửa khẩu tiểu ngạch được khai thông... Đặc biệt đến nay có 183/191 xã có đường về đến trung tâm xã...
Công tác thuỷ lợi có những chuyển biến mạnh. Từ những công trình trước đây còn tạm bợ, chưa được kiên cố hoá, khả năng tưới 22.000 ha thì đến nay đã có 215 công trình lớn nhỏ được sửa chữa nâng cấp, cộng với 5283 công trình siêu nhỏ do dân tự làm với năng lực tưới đạt trên 28.000 ha.
+ Sự nghiệp y tế - Giáo dục - phát thanh , truyền hình trên...

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top