Quarrie

New Member

Download miễn phí Toàn cầu hoá kinh tế và tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá kinh tế





 

LỜI NÓI ĐẦU 1

B. NỘI DUNG CHÍNH: 2

CHƯƠNG I: TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ 2

I. Nền kinh tế thế giới và quá trình toàn cầu hoá 2

1. Khái niệm toàn cầu hoá: 2

2. Tính tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá. 5

II. Các hình thức và tác động của toàn cầu hoá 6

1. Các hình thức 6

1.1. Ngoại thương 6

1.2. Đầu tư vốn: 7

1.3. Chuyển giao công nghệ 9

1.4. Chuyên mô hoá sản xuất và hợp tác sản xuất 10

1.5. Xuất khẩu lao động 11

1.6. Phát triển thị trường trong nước trong bối cảnh hội nhập 12

1.7. Tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. 13

2. Những tác động toàn cầu hoá kinh tế 14

2.1. Tác động tích cực 14

2.2. Tác động tiêu cực. 15

CHƯƠNG II: CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM 17

I. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập 17

1. Quản điểm của Đảng và Nhà nước ta về toàn cầu hoá kinh tế. 17

2. Sự cần thiết phải chủ động hội nhập. 17

3. Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập 19

II. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, giải pháp để hội nhập 20

1. Những vấn đề đặt ra cho quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta. 20

2. Giải pháp để hội nhập. 20

2.1. Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. 21

2.2. Điều chỉnh, xây dựng cơ cấu kinh tế mới. Nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. 21

2.3. Đổi mới cơ chế quản lý. 22

2.4. Coi trọng nhân tố con người. 22

KẾT LUẬN 24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ng có chính sách đầu tư đúng theo tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đang được quán triệt và triển khai.
Qua hơn 6 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã là môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào địa bàn. Vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1994 đến năm 1996 là 72 - 78%. Từ năm 1997 đến năm 1999 luôn luôn chiếm trên 80% tổng số vốn đầu tư toàn thành phố, trong đó có vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao, dao động từ 30 - 40% tổng số vốn đầu tư ngoài vào Hà Nội.
Dự báo thời kỳ 2001 - 2005 Việt Nam sẽ thúc đẩy vốn FDI trung bình một năm vào khoảng 5 - 6 tỷ USD, trong đó Hà Nội một năm khoảng 0,8 - 1 tỷ USD. Thời kỳ 2006/2010 Việt Nam sẽ thu hút vốn FDI trung bình 1 năm vào khoảng 8 - 9 tỷ USD, trong đó Hà Nội khoảng 2,0 - 2,2 tỷ USD/năm. Nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Ngoài ý nghĩa bổ sung nguồn vốn đáng kể cho tăng trưởng, khu vực này còn góp phần tạo việc làm chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Do vậy cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút, sử dụng có hiệu quả hơn vốn FDI.
Thời gian qua, đầu tư tư nhân trong nước tăng nhanh và có vị trí ngày càng quan trọng hơn, từ mức dưới 20% tổng đầu tư xã hội (thời kỳ 1997 - 2000) lên 24,7% (năm 2001) và tăng khoảng 30% (so với năm 2000). Tuy nhiên so với các nước trong khu vực, tỷ lệ tiếp kiện dân cư còn thấp, định hướng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của khu vực tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế. Cần có nhiều cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích đầu tư tư nhân.
Trong bối cảnh suy giảm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) toàn cầu, kết quả cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2001 vẫn đạt mức 2,4 tỷ USD, và vốn giải ngân vẫn đạt 1,7 tỷ USD là khả quan, góp phần thiết thực cho tăng trưởng, phát triển cần tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng bài học thành công cũng như chưa thành công trong thời gian qua để tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút, sử dụng ODA, vay và trả nợ nước ngoài theo tinh thần bản “Đồng thuận Mông - tơ - Sây” (tháng 4 - 2002, Mêhicô) về tài trợ cho phát triển.
Như vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư càng trở nên thiết thực trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế ngày nay, sẽ không có sự phát triển hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bản và công nghệ giữa các nước và khu vực trên thế giới.
1.3. Chuyển giao công nghệ
Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, để đạt được mục tiêu đó, chúng ta phải có được một nền khoa học hiện đại áp dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội.
Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng của sự phát triển. Nhận thức rõ vai trò đó của khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khoá VIII một lần nữa nhấn mạnh: “Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Thực tiễn phát triển của hơn 15 năm đổi mới, đã chứng tỏ việc chúng ta áp dụng những tiến bộ khoa học, đổi mới công nghệ, tiếp thu công nghệ tiên tiến và một yếu tố rất quan trọng làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân. Để đạt được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) liên tục đạt khoảng 8% những năm qua, ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế, mở cửa, chủ động, hội nhập với thị trường khu vực và thế giới thì yếu tố quan trọng.
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thường thấy nổi lên vấn đề vốn, nhưng phân tích kỹ thì thực ra, vốn phần lớn cũng là để đổi mới và tiếp thu công nghệ (mua thiết bị, máy móc - phần cứng của công nghệ, và mua quy trình, bí quyết công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, năng lực quản lý cho người lao động.phần mềm của công nghệ).
Không chỉ riêng đối với nước ta mà lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới cũng cho thấy đã có rất nhiều cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ ra đời. Cuộc cách mạng được thực hiện đầu tiên ở nước Anh đã tạo ra công cụ lao động bằng máy móc, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí, làm thay đổi về chất và tư liệu sản xuất. Từ giữa thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại lại tạo ra bước đột phá mới trong sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển đó không chỉ đem lại tính chất hiện đại cho các yếu tố tư liệu sản xuất mà còn ở kỹ thuật, phương pháp, bí quyết sản xuất hiện đại, trình độ tổ chức và quản lý tiên tiến nghĩa là từ thiết bị, con người thông tin đến tổ chức quản lý.
Như vậy, thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ từ nước này sang nước khác làm thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao nhằm rút ngắn quá trình hiện đại hoá công nghệ và do vậy có thể đẩy nhanh tốc độ, nâng cao năng lực sản xuất, khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh. ở nước ta, việc tiếp cận chuyển giao và phát triển công nghệ là hết sức cần thiết, song vấn đề đặt ra là phải có cơ chế chính sách hợp lý để việc chuyển giao công nghệ vừa đạt được mục tiêu khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế vừa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái.
1.4. Chuyên mô hoá sản xuất và hợp tác sản xuất
Chúng ta đã biết mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là hợp tác nội lực là chính và ngoại lực và tạo thành sức mạnh tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường xu hướng hợp tác và nhất là thể hoá kinh tế thế giới, nhằm thu hút các nguồn lực kinh tế từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, mở rộng phân công lao động quốc tế tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác.
Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại khoa học và công nghệ, văn hoá xã hội, tiêu biểu như có tổ chức thương mại thế giới (WTO); tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD); tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC), Liên Hiệp Châu Âu (EU - 15), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASAN) vv.
Ngày nay xu thế chung của thế giới là đi vào hoà hoãn mọi vấn đề có tính qu

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top