barabp

New Member

Download miễn phí Khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là khủng hoảng sản xuất thừa (thừa so với sức mua eo hẹp của quần chúng lao động





Nghiên cứu về CNTB và thực tế các nhà kinh tế học đã rút ra kết luận : Khủng hoảng kinh tế chu kì trong CNTB là điều tất yếu và có những hậu quả to lớn . Tuy nhiên đối với những nước đầu tư và đổi mới tư bản cố định hợp lý trong các giai đoạn của khủng hoảng thì sẽ nắm bắt được thời co thuận lợi để cải tiến kĩ thuật và máy móc , nâng cao năng suất lao động .Với sự phát triển không ngừng của các phát minh , tiến bộ khoa học kĩ thuật , hiểm hoạ khủng hoảng vẫn đang rình rập không trừ một nứơc tư bản nào . Chính vì vậy mà các nước TB đang phát triển cũng nhue nước TB lớn đều ra sức củng cố tổ chức và lập ra các kế hoạch có tính khả thi nhất để đối phó với tình trạng này .

Trên đây bài viết chỉ xin nêu một số nét điển hình của các cuộc khủng hoảng , tuy chưa thật sự đầy đủ nhưng cũng có thể xem như một tài liệu tham khảo về khủng hoảng kinh tế chu kì ở các nước TBCN. Với kiến thức được trang bị trong nhà trường và nỗ lực bản thân em hi vọng bàI viết sẽ củng cố thêm hiểu biết về nền kinh tế thế giới nói chung và của xã hội tư bản nói riêng. Một lần nữa em xin chân thành Thank sự giúp đỡ của các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ tạo đIũu kiện cho em hoàn thành bàI tiểu luận này.

 

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Lời nói đầu
Khi sản xuất hàng hoá giản đơn CNTB ra đời với những ưu điểm vượt trội của nó đã thúc đẩy sản xuất , trao đổi và lưu thông hàng hoá .Vì vậy nó đã thúc đẩy nền sản xuất TBCN lên một mức mới cao hơn hẳn so với mức cũ .
Nhưng đi kèm với sự phát triển của cách sản xuất CNTB lại là những mặt trái không thể tránh khỏi. Một trong những vấn đề đó chính là những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì cứ 8 đến 12 năm lại diễn ra một lần.Với mục tiêu làm giàu,mong muốn chiếm đoạt giá trị thặng dư một cách vô hạn ,giai cấp tư bản đã tìm mọi cách vơ vét ,thoả mãn lòng tham vô đáy của mình.
Cuộc cạnh tranh hay là cuộc chiến thu lợi nhuận của các nhà tư bản đã vô hình dung đẩy nền kinh tế TBCN hay chính các nhà tư bản đến những hậu quả không thể tránh : khủng hoảng kinh tế chu kì .Với tốc độ phát triển nhanh của máy móc , của năng suất lao động , hiện nay khủng hoảng đã trở thành một mối nguy hại , một thứ bệnh dịch có khả năng lây lan và có thể bùng phát bất cứ lúc nào.
Với nhữnh kiến thức tiếp nhận trên lớp cùng với sự tìm hiểu thêm ở các tài liệu tham khảo ,sau đây em xin trình bày một số vấn đề liên quan mật thiết đến các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì trong CNTB.Trong bài viết mặc dù đã nỗ lực hết sức mình nhưng không thể tránh được những sai sót nhất định , em mong có được sự góp ý và giúp đỡ của thầy cô giáo để bài viết dược tốt hơn. Em xin chân thành Thank các thầy cô giáo đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Phần nội dung
Khủng hoảng kinh tế dưới CNTB là khủng hoảng sản xuất thừa (thừa so với sức mua eo hẹp của quần chúng lao động). Trong các cách sản xuất trước TBCN vẫn thường xảy ra những biến động trong đời sống kinh tế , những biến động đó thương do thiên tai, địch hoạ , dịch bệnh Nhưng duy nhất ở phương thứ sản xuất CNTB lại có khủng hoảng thừa hay nói cách khác là khủng hoảng kinh tế thừa là hiện tượng riêng của CNTB . Nó giống như cái nhọt nổi lên bên ngoài báo hiệu cho những ung nhọt bên trong của CNTB . Cái nhọt đó là căn bệnh nan y đối với tất cả các nước CNTB , cứ 8 đến 12 năm như một ma lưc như một sức mạnh nào đó lại phát bệnh một lần .
Một trong những con bệnh đó là nước Anh , trong vòng 33 năm kể từ 1925 đến 1958 đã phải chịu 7 lần phát bệnh vào những năm :1825 – 1836,1890 –1900, 1907 – 1920, 1920 – 1929, 1929 – 1937, 1938 – 1949, 1957 –1958 Mĩ dường như cũng không chịu “thua kém” : sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 Mĩ đã rơi vào cuộc khủng hoảng lần thứ 9 với những hậu quả to lớn , sản xuất công nghiệp giảm 5,3%, GDP giảm 2,2% , thất nghiệp tăng 7,8%, lạm phát tăng 4,6%
Nguyên nhân của căn bệnh khủng hoảng không ở đâu xa mà ngay trong lòng chính xã hội CNTB , ngay từ khi ra đời nó đã mang theo những mâu thuẫn đối kháng trong mình .Nguyên nhân trước hết có thể nhắc đến là mâu thuẫn giữa tính kế hoạch trong nội bộ từng xí nghiệp với tính vô chính phủ trong nền sản xuất hàng hoá. Trong các nền sản xuất khác tình trạng sản xuất vô chính phủ vẫn diễn ra .Nhưng không ở đâu hay bất cứ nền sản xuất nào tính vô chính phủ lại có thể gây ra những hậu quả to lớn như vậy. Các nhà TB vì mong muốn làm giàu, vì mong muốn những khoản lợi nhuận kếch xù mà đã liên tục thay đổi máy móc để nâng cao năng suất lao động .Bằng mọi cách nhà TB chỉ chạy theo sức hút đồng tiền bất chấp hậu quả .Họ tổ chức cho xí nghiệp mình sản xuất một cách thuận lợi nhất , tìm cho mình một món hàng đầu tư thu lợi nhuận cao nhất và như vậy khi tìm được những miếng mồi béo bở nhà TB sẵn sàng chuyển tư bản từ ngành nọ sang ngành kia. Nhưng cái miếng mồi ngon , miếng mồi chứa lợi nhuận siêu ngạch ấy đâu chỉ một nhà TB có thể nhìn thấy . Do vậy việc tất cả ồ ạt chuyển sang một nghành để kinh doanh ắt hẳn sẽ làm mất đi tỉ lệ ổn định giữa các ngành. Mà tái sản xuất TBXH muốn tiến hành một cách trôi chảy thì giữa các ngàng sản xuất xã hội phải có những tỉ lệ cân đối nhất định . Nhưng bây giờ sự cân bằng đã mất đi thì việc khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
Điển hình cho lòng tham CNTB là cuộc khủng hoảng cuối những nâm 70 nền kinh tế các nước công nghiêp chủ yếu đã bùng nố khủng hoảng một loạt ngành có tính chất thế giới . Hầu hết ở các ngành sản xuất quan trọng của thế giới (hay nói cách khác đó là các nguồn hái ra tiền cua TB ) như luỵên kim ,đóng tàu , công nghiệp dệt ,Chẳng hạn : trọng tải tàu hạ thuỷ của thế giới các nước công nghiệp chủ yếu vào thời kì khủng hoảng 1974-1975 là 34,4 triệu tấn , trong đó Nhật Bản là 17,7 triệu tấn .khối EEC là 8.1 triệu tấn , Mĩ là 8,6 triệu tấn . Ngành luyện thép cung có tình tranh tương tự . Sản lượng thép của cả thế giớ tư bản phát triển là 490,7 triệu tấn . Còn tình hình cụ thể của các nước như sau: Mý 140 triệu tấn , Khối EEC là 150 triệu tấn ,Nhật bản 119,3 triệu tấn .Các con số này vượt xa các nhu cầu về sắt thép của thế giới và là nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng 1974-1975.
Nguyên nhân thứ 2 không thể không đề cập tới , đó chính là mâu thuẫn giữa khả năng sản xuất vô hạn của CNTB và nhu cầu có khả năng thanh toán của quần chúng Lao Động . Với mục đích đi lên để kiếm tiền , nhà TB đã giẫm đạp lên cuộc sống của người lao động – những người đã tạo ra của cải vật chất cho họ . Tích luỹ , mở rộng sản xuất , cải tiến kĩ thuật tất cả đã ngày càng bần cùng hoá một cách tương đối quần chúng lao động , ngày càng tạo nên vực sâu ngăn cách về mức sống giữa giai cấp Tư sản và giai cấp Vô sản . Trong khi hàng hoá sản xuất ra với tốc độ chóng mặt thì sức mua của người lao động lại chỉ nhích lên từng tí ,từng tí một rất chậm chạp . Đó là điều tất yếu để xảy ra khủng hoảng : hàng hoá thì nhiều nhưng người tiêu dùng lại không đủ tiền mua hàng . Thừa hàng hoá - đó là hiện tượng khơi mào để khủng hoảng xảy ra: các xí nghiệp buộc phải hạ giá hàng ,chụi lỗ vốn và có khi là mất trắng . Từng bước , từng bước một như vậy sản xuất bị thu hẹp dần , các xí nghiệp đóng cửa , công nhân thất nghiệp
Ví dụ cho viêc bần cùng hoà công nhân lao động là Nhật Bản , tuy là một trong những nước có tốc đọ tăng tiền lương thực tế cho công nhân nhanh nhất nhưng đến đầu những năm 1967 lương công nhân Nhât Bản vẫn còn ở mức rất thấp .Nếu lấy chỉ số tiền lương thực tế trong năm đó của công nhân Nhật Bản là 100 thì Mĩ là 371, Tây Đức là 179, Anh là 178. Một tiêu chí khác để nói lên tình trạng tiền lương thấp của công nhân Nhật Bản là tỉ lệ tiền lương so với giá trị gia tăng của Nhật Bản thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển khác , năm 1971 nó chỉ đạt 34,6% so với 43,8 của Italia ,45,8% của Mĩ ,52% của Canađa và 53,4 %của Anh . (số liệu theo “Niên gián thống kê lao động tiền lương ” của tổ chức tiền lương Liên Hợp Quốc )
Còn ở Mĩ thì với việc tăng năng suất liên tục , hàng hoá cũng nối đuôi nhau ra đời thì người lao động lại liên tục đối đầu với nạn thất nghiệp . Từ năm 1963 tỉ lệ thất nghiệp luôn vượt 4% , năm 1960 là 5,5% , năm 1961 là 6,7% , năm 1964 tuy có giảm nhưng vẫ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành thép việt nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Luận văn Kinh tế 0
F Khả năng ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ khu vực đến thị trường và nền kinh tế nước ta Luận văn Kinh tế 0
C Điều chỉnh chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp dệt may trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế năm 200 Luận văn Kinh tế 0
C Quản lý nợ công ở Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu Luận văn Kinh tế 0
H Nợ công và xử lý khủng hoảng nợ tại Hy Lạp - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam :Luận văn ThS. Kin Luận văn Kinh tế 0
T Khủng hoảng nợ công thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
O Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 và tác động đối với kinh tế - xã hội Việt Nam Kinh tế quốc tế 0
D Quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 Kinh tế quốc tế 0
P Kinh tế Trung Quốc dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của Mỹ từ năm 2007 đến năm 2 Văn hóa, Xã hội 0
T Những tác động của khủng hoảng kinh tế Mỹ năm 2008 đến kinh tế Việt Nam Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top