daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

Chương I: Kinh nghiệm công nghiệp hóa ở một số nước
1. Thực hiện mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa phát huy nội lực và “thích
ứng chuyển đổi” các yếu tố ngoại lực: Kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Quốc
Cách đây hơn 100 năm về trước thì Nhật Bản là một nước nông nghiệp cổ truyền tự
cấp, tự túc, sản xuất manh mún, điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết khó khăn (70% diện
tích đất đai là đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi nhiều con sông chảy xiết).
Nhưng Nhật Bản đã nhanh chóng chuyển được nền nông nghiệp cổ truyền kiểu Đông
Á thành nền nông nghiệp hiện đại, đưa nền kinh tế thuần nông trở thành nền kinh tế
công nghiệp, dịch vụ nhờ biết lựa chọn và thực hiện mô hình công nghiệp hóa dựa trên
sự tương tác năng động của hai hệ thống nội lực và ngoại lực, đồng thời chuyển hóa
thành công các yếu tố ngoại lực thành nội lực.
- Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều đạo luật và thực thi nhiều chính sách
nhằm khuyến khích phát triển và bảo vệ lợi ích của nông nghiệp, nông dân và nông
thôn.
- Nhật Bản khai thác tối đa các nguồn lực từ bên ngoài và làm cho chúng thích ứng
với điều kiện Nhật Bản, chuyển hóa ngoại lực thành nội lực.
Phương pháp chủ yếu và xuyên suốt của Nhật Bản trong việc tiếp cận với kỹ thuật
tiên tiến phương Tây là bằng con đường nhập khẩu với nhiều hình thức khác nhau:
nhập khẩu trực tiếp công nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người
Nhật đi du học để tiếp thu những tri thức mới của phương Tây, và thu hút chuyên gia
giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới.

Điều đặc biệt là, Nhật Bản không bắt chước nguyên mẫu của nước ngoài, mà họ
luôn tìm cách cải tiến công nghệ nhập khẩu để thích nghi chúng (thích ứng chuyển
đổi), đây là bí quyết thành công để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa của Nhật Bản.
Cho nên, đối với Nhật Bản việc bắt chước công nghệ và cải tiến công nghệ cho phù
hợp với điều kiện nội tại là con đường ngắn nhất để tiến tới nền kinh tế hiện đại.
Vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc bắt đầu thực hiện những cải cách mở cửa để
phát huy lợi thế sẵn có về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động dồi dào, giá rẻ; đồng
thời tranh thủ tối đa nguồn vốn, công nghệ và đặc biệt là tri thức từ bên ngoài thông
qua ba hướng chủ yếu là: thương mại, đầu tư và du học.
1
- Mở rộng thương mại: Trung Quốc đã sớm từ bỏ chính sách độc quyền ngoại
thương và từng bước tự do hóa hoạt động xuất, nhập khẩu. Để không bị phụ thuộc vào
một thị trường, Trung Quốc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm và thị trường thúc đẩy
quan hệ buôn bán hai chiều giữa Trung Quốc và các nước phát triển nhanh.
- Mở rộng đầu tư: Trung Quốc đã mở rộng cửa nền kinh tế để thu hút dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, lợi dụng vốn và kỹ thuật nước ngoài phục vụ hiện đại hóa đất
nước.
- Mở rộng chương trình du học được thực hiện qua con đường học hỏi và kế thừa
tiến bộ khoa học công nghệ của phương Tây (chủ yếu là Mỹ).
Thích ứng chuyển đổi công nghệ nước ngoài của Trung Quốc được thực hiện theo
một chu trình gồm ba giai đoạn: đầu tiên, thu hút FDI để lắp ráp sản phẩm, gia công
theo thiết kế chế tạo gốc; tiếp theo, thông qua liên kết, liên doanh để chuyển sang sản
xuất trong nước các sản phẩm công nghệ cao và vẫn giữ nguyên thương hiệu gốc của
các tập đoàn nước ngoài; cuối cùng, sản xuất các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ
cao nhờ liên kết, liên doanh tự thiết kế và mang thương hiệu riêng của Trung Quốc.
Để học hỏi một cách hiệu quả, một mặt Trung Quốc đưa người ra nước ngoài, nhất
là đến các nước phát triển để học tập; và mặt khác họ mời người nước ngoài đến Trung
Quốc giảng dạy, hay đầu tư vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo, giúp tiết kiệm được thời
gian và tiền của cho việc nghiên cứu công nghệ mới, cũng như tiếp nhận chuyển giao
công nghệ.
Việc kết hợp một cách khéo léo giữa sức mạnh nội lực và ngoại lực, và biết “thích
ứng chuyển đổi” các yếu tố ngoại lực đã phát huy được tính tương hỗ giữa chúng, tạo
nên sức mạnh to lớn cho phát triển, trong đó việc dựa vào và phát huy yếu tố nội lực sẽ
cho phép bảo đảm được các cân đối chủ yếu, phát triển ổn định, bảo vệ được nền kinh
tế quốc gia trước những ảnh hưởng của nước ngoài, và là cơ sở để các yếu tố tích cực
từ bên ngoài được đưa vào nền kinh tế hiệu quả hơn.
2. Mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa thay thế nhập khẩu với hướng vào xuất
khẩu và hướng tới công nghệ cao - Kinh nghiệm của các NICs
Các nước và vùng lãnh thổ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore được
gọi là các nước công nghiệp mới (NICs) đã tạo nên những nền công nghiệp tăng trưởng

2
nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Thời gian hoàn thành công nghiệp hóa chỉ mất
khoảng 30 năm.
Tuy có những điểm khác nhau, nhưng tất cả các nước đều có điểm chung là thực
hiện kết hợp và chuyển đổi giữa các mô hình CNH thay thế nhập khẩu, CNH hướng về
xuất khẩu, và CNH hướng tới công nghệ cao phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đặt ra
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Điều đó đã tạo nên thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa tại các nước này.
Bài học kinh nghiệm quan trọng nhất của NICs là ở chỗ biết kết hợp khéo léo, thay
thế lẫn nhau giữa các mô hình CNH bằng chính sách bổ sung lẫn nhau giữa hướng về
xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, trong đó hướng về xuất khẩu là trọng tâm. CNH đi từ
bước nhỏ đến bước lớn, từ thị trường trong nước đến khu vực rồi thế giới, từ công nghệ
có hàm lượng lao động cao đến công nghệ có hàm lượng vốn và khoa học cao.
Việc kết hợp, thay thế lẫn nhau giữa các mô hình CNH đã giúp các NICs phát huy
được tiềm năng nội sinh và cơ hội ngoại sinh để đẩy nhanh quá trình CNH. Việc thực
hiện chuyển giao công nghệ thông qua con đường khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài là con đường phổ biến tại nhiều nước, nhưng Hàn Quốc lại thực hiện điều đó chủ
yếu bằng các hợp đồng nhập khẩu công nghệ và bằng sáng chế kỹ thuật. Hàn Quốc đã
ban hành qui chế giám sát cần thiết để lựa chọn công nghệ tiên tiến với giá cả phù hợp;
đồng thời đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu để tiếp thu, học
hỏi và phát triển công nghệ. Nhìn chung, các NICs đều chú trọng việc nghiên cứu,
phân loại tính chất công nghệ và đặc điểm các kênh chuyển giao để tránh nhập những
“công nghệ rác”, mà đi thẳng vào công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Nhờ đó tác động
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế các NICs tạo ra những ngành công nghiệp mới có giá
trị gia tăng cao, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.
Để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới, hầu hết các NICs đều thực hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc “Xuất khẩu hay là chết”, vừa nhằm đề cao vai trò trách nhiệm
của doanh nghiệp, vừa tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Theo nguyên tắc đó, nếu doanh nghiệp nào không tạo được những sản phẩm
có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sẽ không có cơ hội tồn tại, bởi Chính phủ
chỉ thực hiện hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó, hay thậm chí một công ty cá
3
biệt nào đó trong thời kỳ đầu khi còn non trẻ, còn sau đó một vài năm thì các công ty sẽ
phải tự tồn tại bằng cách xác lập vị trí của mình trên thị trường thế giới.
Như vậy, rõ ràng mô hình CNH kết hợp thay thế nhập khẩu, hướng về xuất khẩu và
hướng tới công nghệ cao đã cho phép các nước đang phát triển có thể vận dụng được
những hạt nhân hợp lý của mỗi mô hình, trong đó đặt trọng tâm vào mô hình hướng về
xuất khẩu, hướng tới công nghệ cao và lấy mô hình thay thế nhập khẩu để bổ sung. Đó
cũng là cách để các nước đang phát triển tham gia sâu rộng vào quá trình phân công lao
động quốc tế nhằm tranh thủ khai thác tối ưu các nguồn lực từ bên ngoài, đồng thời
phát huy được nguồn lực từ bên trong, tạo ra sức bật mạnh mẽ và khả năng to lớn để
thực hiện CNH bền vững.
3. Thực hiện công nghiệp hóa kết hợp giữa sức mạnh của thị trường và sự dẫn dắt
của Nhà nước – Kinh nghiệm một số nước ASEAN
Trong khối ASEAN thì Indonesia, Malaysia, Philippin, và Thái Lan là những nước
tuy kém phát triển hơn NICs nhưng lại phát triển cao hơn các nước khác trong khối.
Tốc độ công nghiệp hóa tại các nước này trong những năm gần đây tiến triển rất nhanh,
đưa các nước này trở thành những “con hổ” Châu Á. Các nước ASEAN đều tiến hành
CNH có khác với NICs về thời điểm (muộn hơn khoảng 1 thập kỷ), về bối cảnh quốc tế
(có sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu hướng khu vực
hoá, toàn cầu hoá thương mại đang diễn ra rất sôi động). Mô hình CNH mà các nước
này áp dụng là kết hợp sức mạnh của thị trường với sự dẫn dắt của Nhà nước. Trong
mối quan hệ đó, Nhà nước với ưu thế về tính kế hoạch thống nhất sẽ điều tiết thị
trường, còn thị trường với ưu thế năng động và linh hoạt sẽ điều tiết các doanh nghiệp,
khắc phục những thiếu khuyết của Nhà nước. Như vậy có nghĩa là, tốc độ hoàn thành
CNH nhanh hay chậm của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhà nước tại
chính quốc gia đó.
Hệ thống điều tiết của Nhà nước tại các nước này được thiết lập không phải chỉ dựa
vào sức mạnh quyền lực và chi phối tuyệt đối quá trình CNH, mà Nhà nước căn cứ vào
thị trường để định hướng, quy hoạch, kiểm soát và hỗ trợ CNH theo các mục tiêu của
mình, thông qua việc ban hành các luật lệ, chính sách kinh tế và xây dựng bộ máy điều
hành. Mục tiêu can thiệp của các Nhà nước ASEAN là nhằm làm cho thị trường hoạt
4
động có hiệu quả hơn, nhờ đó sẽ khai thác triệt để hơn các nguồn lực phục vụ quá trình
CNH.
Để thu hút kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước đi trước
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa nước mình một cách hiệu quả nhất, Nhà nước các
nước ASEAN đã chủ trương mở rộng thị trường, tạo môi trường để dòng vốn, công
nghệ và chuyên gia của nước ngoài “chảy” vào nền kinh tế một cách nhanh chóng,
thuận lợi. Chẳng hạn, để tăng năng lực công nghệ quốc gia, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, một mặt Nhà nước tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho các hoạt động
nghiên cứu - triển khai; và mặt khác, khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực đó
Ngoài ra, các nước còn thực hiện các chính sách khuyến khích, kêu gọi các nhà khoa
học, chuyên gia kỹ thuật đang ở nước ngoài về nước làm việc, và “nhập khẩu” cả các
chuyên gia, kĩ sư giỏi của nước ngoài với chế độ đãi ngộ đặc biệt. Đó thực sự là những
đột phá cho việc đẩy nhanh tiến trình HĐH nền kinh tế tại các nước ASEAN.
Để thu hút FDI, Chính phủ các nước ASEAN đã mở rộng cửa nền kinh tế đi kèm
với nhiều chính sách ưu việt như: mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài, tạo bầu
không khí thuận lợi cho đầu tư, khuyến khích vật chất để các công ty đa quốc gia lựa
chọn đất nước mình làm “công xưởng” của thế giới.
Chương II: Bài học đối với Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện
nay
1. Chú trọng khai thác lợi thế so sánh, kết hợp tốt hướng ngoại và hướng nội, lấy
thị trường nước ngoài làm trọng tâm
Kinh nghiệm các nước cho thấy, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện mở cửa đã dẫn tới thành công nhanh chóng. Suốt trong thời gian từ những năm 60
đến nay, Các nước vẫn lấy thị trường nước ngoài làm mục tiêu trọng tâm cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, từ những năm cuối 70 đến đầu thập kỷ 80, khi tiềm
lực kinh tế đất nước tăng lên, mức thu nhập, mức sống dân cư đã tăng lên, bên cạnh
chính sách tự do hóa nhập khẩu, Các nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa không
buông lỏng sự quan tâm đến thị trường nội địa.Việt Nam đang tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và từng bước mở cửa nền
kinh tế. Định hướng thị trường đã trở thành mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
5
hóa. Trong mở cửa, mức độ tự do hóa và tốc độ tăng trưởng kinh tế có liên quan tỷ lệ
thuận với nhau. Tuy nhiên, mở cửa và tự do hóa một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi
mới cho phát triển kinh tế, mặt khác cũng nảy sinh nhiều thách thức khi khả năng công
nghiệp trong nước còn yếu kém.
2. Đi thẳng, đi tắt vào công nghệ hiện đại
Để tăng khả năng cạnh tranh trong hội nhập kinh tế, trong công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là nước đi sau nên ta có lợi thế với bước đi tắt về công nghệ. Từ thực tế, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, các nước đi sau không cần "phát minh" lại, mà chỉ cần biết
lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và làm chủ công nghệ, có sẵn qua chuyển giao công nghệ.
Từ đó cho thấy, về công nghệ Việt Nam có thể rút ngắn thời gian và giảm tới mức thấp
nhất có thể về độ "mạo hiểm" của quá trình áp dụng công nghệ mới. Bên cạnh đó về
mặt kinh tế, ta ít phụ thuộc hơn vào những công nghệ tiêu tốn nguyên liệu, năng lượng,
gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, ngày nay để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa có rất nhiều những giải pháp công nghệ mà không nhất thiết theo bước đi tuần
tự của những nước đi trước. Có những công nghệ ta không phải tự tìm kiếm sáng tạo
mà chỉ cần nắm bắt công nghệ phù hợp nhất đã có trên thế giới. Từ kinh nghiệm các
nước, con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, không thể là sự sao chép
một cách máy móc cách làm của những nước đi trước, dù họ có thành công hay không
thành công.Việc tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài bằng nhiều hình thức: mua phát
minh, sáng chế, mua máy móc thiết bị, du nhập công nghệ qua đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI). Để tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài có hiệu quả,
phải biết lựa chọn công nghệ phù hợp với năng lực của nền kinh tế và cũng biết nội địa
hóa công nghệ. Mặt khác, phải kết hợp giữa tuần tự và nhảy vọt trong phát triển công
nghệ bằng cách khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, lao động dư thừa, vốn hạn
hẹp ta phải vừa tận dụng công nghệ sẵn có và từng bước hiện đại hóa công nghệ truyền
thống, đồng thời lựa chọn từng mặt, từng khâu trong một số ngành để đi tắt vào công
nghệ hiện đại. Khắc phục sự lạc hậu về công nghệ không chỉ trong thời gian dài, mà
còn đòi hỏi cả nguồn vốn lớn. Để thúc đẩy đổi mới công nghệ và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, Nhà nước cần tác động tích cực vào quá trình ấy bằng cơ chế, chính sách:
6
- Tạo quyền chủ động cho chủ thể kinh doanh lựa chọn, mua bán công nghệ, kể cả
việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài, giúp các quyết định trong lĩnh vực này
được thực hiện nhanh chóng, chính xác hơn, thiết thực hơn đối với các cơ sở sản xuất.
- Tạo nhu cầu bức thiết đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Khi kinh doanh
trong cơ chế thị trường, cạnh tranh khiến cho các doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư
công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước cần ưu tiên các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận, áp dụng công nghệ mới.
3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH bền vững và hội
nhập quốc tế với việc hình thành những ngành trọng điểm và mũi nhọn
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là do tác động của nhiều nhân tố, như cơ chế,
chính sách, khoa học công nghệ… trong đó, khoa học công nghệ đóng vai trò rất to
lớn. Ảnh hưởng của khoa học công nghệ tiên tiến đó là sự biến đổi cả về lượng và chất
để hướng tới cơ cấu ngành phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH để đảm bảo hội nhập có kết quả
là quá trình có tính qui luật phổ biến ở tất cả các nước, song trong mỗi giai đoạn khác
nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi các chủ thể
phải có những nhận thức đúng đắn để có các biện pháp phù hợp tác động vào quá trình
đó. Ở nước ta hiện nay, vẫn trong giai đoạn đầu của CNH, HĐH, sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế diễn ra còn chậm vì nó diễn ra trong bối cảnh bước vào chuyển đổi cơ
chế quản lý. Trong giai đoạn này, một số yếu tố của cơ chế mới từng bước được hình
thành song cần có thời gian để củng cố, nhiều yếu tố ở tầm quản lý chiến lược còn
chưa được định hình rõ nét, cần những giải pháp và bước đi quá độ để thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo đúng hướng theo lộ trình CNH, HĐH. Khó khăn
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay đó là khi ta cần thúc đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sớm hình thành cơ cấu mới tích cực để hội nhập lại thiếu
nguồn lực cơ bản cho sự phát triển: vốn, trình độ công nghệ kỹ thuật thấp kém, lao
động trình độ thấp…
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất quốc tế hóa
ngày càng cao. Tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng sản xuất
mới đẩy nhanh sự phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng
7
thể nền kinh tế, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà còn tạo ra những nhu cầu mới đòi
hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp mới với công nghệ tiên tiến có triển vọng
phát triển mạnh trong tương lai.
4. Nâng cao vai trò Nhà nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ kinh nghiệm của các nước châu Á cho thấy, Nhà nước đóng vai trò vô cùng
quan trọng là yếu tố quyết định đem lại thành công trong CNH, HĐH. Các nghiên cứu
có liên quan đến vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH đều khẳng định sự
cần thiết và tầm quan trọng của Nhà nước trong việc lựa chọn chiến lược, tổ chức điều
hành, đẩy nhanh nhịp độ CNH, HĐH phục vụ mục đích đạt tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững.
Với Việt Nam, tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường với xu thế mở cửa và hội nhập là vấn đề mới. Ở Việt Nam từ kinh
nghiệm của các nước, tập trung vào hai khía cạnh: Nhà nước là người lựa chọn chiến
lược CNH, HĐH và bằng chính sách của mình tác động có hiệu quả vào tiến trình này.
Xây dựng chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đã tạo ra nhiều hy vọng cho
các quốc gia đang phát triển về khả năng thực hiện rút ngắn con đường công nghiệp
hóa để nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Đặc trưng của thời đại đã qui
định chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hay hướng về xuất khẩu hay
CNH, HĐH vững theo hướng hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên nếu chỉ tập trung hướng về xuất khẩu sẽ bỏ lỡ những cơ hội với thị
trường trong nước và bỏ mặc những ngành công nghiệp truyền thống và công nghiệp
non trẻ, nghiêm trọng hơn nữa là bỏ mặc nhiệm vụ cốt yếu xây dựng một nền kinh tế
quốc dân vững mạnh. Vậy nên cần có một số biện pháp thay thế nhập khẩu cần thiết để
vực dậy các ngành công nghiệp non trẻ của đất nước, tranh thủ những cơ hội và khả
năng có lợi của thị trường trong nước, nó chỉ đóng vai trò bổ sung diễn ra trong thời
gian ngắn hạn và điều chỉnh theo xu hướng của thị trường.
Lựa chọn chiến lược cho quá trình CNH, HĐH qua hai giai đoạn dựa trên thay đổi
lợi thế so sánh trong nền kinh tế thị trường đang phát triển của thế giới đương đại. Lúc
đầu dựa vào lao động dồi dào, giá rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cho
phát triển các ngành công nghiệp có khả năng thu hút tận dụng lao động và nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Khi những ưu thế trên đã giảm, đồng thời ưu thế mới về vốn, công
8
nghệ và trình độ của lao động tăng thì diễn ra quá trình phát triển mạnh những ngành
vốn đầu tư lớn, có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và cũng có khả năng đem lại lợi
ích kinh tế lớn. Để thực hiện điều đó, nước ta cần có sự đa dạng hóa về chính sách
công nghiệp và có những bước nhảy tắt về công nghệ nhằm nhanh chóng chiếm lĩnh
những ngành công nghiệp hiện đại, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế tránh nguy cơ tụt
hậu xa hơn trong phát triển.
Lợi thế của ta trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa là giá lao động rẻ cùng với tài
nguyên khoáng sản và nông sản nhiệt đới. Các ngành này sẽ tạo đà cho phát triển công
nghiệp, tạo ra nhiều việc làm và có thêm nguồn thu nhập, nguồn tích lũy lớn hơn để
chuẩn bị cho việc phát triển các tiềm lực công nghiệp lớn hơn ở giai đoạn tiếp theo mà
hiện đại hóa sẽ là trọng tâm. Nói như vậy nhưng chúng ta vẫn cần tranh thủ nắm bắt
kịp thời cơ phát triển ngay một số ngành công nghiệp hiện đại khác.
Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bộ phận quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển đó chỉ có thể thực hiện được trên
cơ sở xây dựng một chiến lược công nghiệp với bước đi rõ ràng dựa trên cơ sở công
nghệ hiện đại, tiên tiến. Một nhiệm vụ vô cùng quan trọng khác cần thực hiện để đẩy
nhanh sự nghiệp CNH, HĐH là việc cải cách thể chế ngày càng phù hợp với cơ chế thị
trường định hướng XHCN. Sau hơn 25 năm chuyển đổi sang cơ chế mới, vai trò kinh
tế của Nhà nước đã chuyển dần từ trực tiếp sang gián tiếp, vai trò định hướng và trọng
tài trong thị trường là chủ yếu.
Kinh nghiệm của các nước đi trước đã cung cấp cho Việt Nam những bài học vô
cùng quý báu. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, nên việc học tập kinh nghiệm các nước
không đơn giản. Những yếu tố vừa nêu đã làm đảo lộn cả tư duy và thực tiễn phát triển
trong nhiều lĩnh vực, nó có ảnh hưởng lớn thậm chí quyết định đến việc hình thành cơ
cấu kinh tế cũng như cách thức tiến hành CNH của mỗi nước. Vì vậy, học tập kinh
nghiệm là cần thiết để tránh việc phải mò mẫm, đi đường vòng mất nhiều thời gian.
Nhưng nếu học hỏi mà thiếu sáng tạo, áp dụng kinh nghiệm các nước một cách máy
móc, nguyên xi, không “thích ứng chuyển đổi” được các yếu tố ngoại lực thành nội lực
thì thời gian còn kéo dài hơn, thậm chí thất bại. Vấn đề là, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ
9
hội do các nước đi trước tạo ra, nhưng nắm bắt cơ hội thế nào để đẩy nhanh quá trình
CNH lại đòi hỏi phải có một Nhà nước đủ năng lực và bản lĩnh.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top