daigai

Well-Known Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
1. Tóm tắt
Chúng tui khảo sát 384 giám đốc điều hành tài chính và tiến hành các cuộc phỏng vấn chuyên
sâu với thêm 23 người để xác định các yếu tố ảnh hưởng việc phân chia cổ tức và quyết định mua lại cổ
phần. Phát hiện của chúng tui cho thấy rằng việc duy trì mức cổ tức là ngang bằng với quyết định đầu
tư, trong khi việc mua lại được thực hiện bởi dòng tiền còn lại sau khi chi tiêu đầu tư. Nhận thức sự ổn
định của thu nhập trong tương lai vẫn còn ảnh hưởng đến chính sách cổ tức như trong lý thuyết Lintner
(1956). Tuy nhiên, năm mươi năm sau, chúng tui thấy rằng mối liên hệ giữa cổ tức và thu nhập đã suy
yếu. Nhiều nhà quản lý ưu tiên mua lại bởi vì chúng được xem là linh hoạt hơn so với cổ tức và có thể
được sử dụng trong một nỗ lực để gia tăng vốn cổ phần hay để tăng EPS. Giám đốc điều hành tin rằng
các tổ chức không quan tâm giữa cổ tức, việc mua lại cổ phần và chính sách cổ tứccó ảnh hưởng rất ít
đến khách hàng đầu tư của họ. Nói chung, quan điểm quản trị cung cấp hỗ trợ nhỏ cho các tổ chức, tín
hiệu, và khách hàng giả thuyết của chính sách thanh toán. Thuế xem xét đóng một vai trò thứ cấp
Năm 1956, John Lintner đã đặt nền móng cho sự hiểu biết hiện đại của chính sách cổ tức.
Lintner (1956) phỏng vấn các nhà quản lý từ 28 công ty và kết luận rằng cổ tức gắn liền với thu nhập
lâu dài bền vững, được trả bởi các công ty trưởng thành, cân bằng từ năm này sang năm khác, và các
nhà quản lý nhắm mục tiêu đạt được một tỷ lệ thanh toán dài hạn khi xác đ ịnh chính sách cổ tức. Trong
bài báo này, chúng tui khảo sát và phỏng vấn giám đốc điều hành về tài chính vào thời điểm đầu của
thế kỷ 21 để tìm hiểu chính sách cổ tức và chính sách mua lại đang xác định lại. Chúng tui làm sáng tỏ
động cơ của nhà quản lý cũng như trên lý thuyết chi trả cổ tức.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu và phỏng vấn chuyên sâu, chúng tui có thể làm tăng thêm
bằng chứng hiện tại về chính sách cổ tức. Chúng tui giải quyết các vấn đề như vai trò của thuế, xem xét
tính đại diện, và tín hiệu trong quyết định chi trả, lý do tại sao các công ty mới thành lập không muốn
trả cổ tức (Fama và Pháp (2001)), lý do tại sao nhiều công ty muốn trả tiền dòng tiền tăng thêm thông
qua mua lại và không thông qua cổ tức (Jagannathan, Stephens và Weisbach (2001), Grullon và
Michaely, (2002)); và cùng một lúc tại sao một số công ty vẫn trả cổ tức đáng kể (Allen và Michaely
(2003); DeAngelo, DeAngelo, và Skinner (2003)). Một khía cạnh độc đáo của cuộc khảo sát của chúng
tui là chúng tui yêu cầu rất nhiều câu hỏi giống hệt nhau về cả cổ tức và mua lại, mà cho phép chúng ta
so sánh và tương phản yếu tố quan trọng mà ảnh hưởng lên việc lựa chọn của từng loại hình thanh toán.
Nhìn chung, các cuộc điều tra và phỏng vấn chuyên sâu cung cấp một chuẩn mực mô tả nơi nghiên cứu
học thuật và chính sách chia cổ tức thực tế phù hợp và chúng khác nhau
Phân tích của chúng tui chỉ ra rằng việc duy trì mức cổ tức là một ưu tiên ngang bằng với quyết
định đầu tư. Nhà quản lý thể hiện một mong muốn mạnh mẽ để tránh cắt giảm cổ tức, ngoại trừ trong
những trường hợp bất thường. Tuy nhiên, ngoài duy trì mức cổ tức trên mỗi cổ phần, chính sách thanh
toán là một mối quan tâm thứ hai để tăng cổ tức được coi chỉ sau khi nhu cầu đầu tư và tính thanh
khoản được đáp ứng. Trái ngược với thời đại Lintner, chúng ta thấy rằng tỷ lệ thanh toán mục tiêu
không còn biến quyết định ưu việt ảnh hưởng đến quyết định thanh toán. Trong khi người không thanh
toán có thể thực hiện chi trả cổ tức, hai lý do chiếm ưu thế: một sự gia tăng bền vững trong thu nhập, và
nhu cầu của các nhà đầu tư tổ chức
Mua lại hầu như không tồn tại khi Lintner (1956) và Miller và Modigliani (1961) đã viết trong
nghiên cứu của họ, do đó, nó không phải là đáng ngạc nhiên rằng các tác giả bỏ qua mua lại. Bởi vì tầm
quan trọng ngày càng tăng của họ trong hai thập kỷ qua, chúng tui nghiên cứu mua lại vào chiều sâu và
xác định các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chính sách mua lại. Phù hợp với một định lý không thích
hợp Miller và Modigliani, và trong tương phản với các quyết định về việc duy trì mức cổ tức, các nhà
quản lý đưa ra quyết định mua lại sau khi quyết định đầu tư. Nhiều nhà quản lý xem mua lại cổ phần là
linh hoạt hơn so với cổ tức, và họ sử dụng sự linh hoạt trong một nỗ lực để thời gian thị trường bằng
cách đẩy mạnh việc mua cổ phần lại khi họ tin rằng giá cổ phiếu của họ là thấp. Giám đốc tài chính
cũng rất ý thức về cách mua lại ảnh hưởng đến thu nhập trên mỗi cổ phiếu, phù hợp với Bens, Nagar,
Skinner, và Wong (2004). Các công ty có khả năng mua lại khi đầu tư tốt là khó để tìm thấy, khi thả
nổi cổ phiếu của họ là đủ, và để bù đắp pha loãng giá trị.
Giám đốc điều hành tin rằng quyết định cổ tức và mua lại truyền đạt thông tin cho các nhà đầu
tư. Tuy nhiên, chuyển tải thông tin này không xuất hiện được ý thức liên quan đến tín hiệu trong ý
nghĩa học thuật. Quản lý từ chối quan điểm cho rằng họ phải trả cổ tức là một tín hiệu tốn kém để
chuyển tải giá trị thực sự của công ty của họ hay công ty có mục đích riêng của họ để chống lại đối
thủ cạnh tranh. Nhìn chung, chúng tui tìm thấy ít hỗ trợ cho cả các giả định và đoán kết quả của các
tín hiệu lý thuyết học thuật được thiết kế để đoán các quyết định chính sách thanh toán, ít nhất là
trong điều khoản của quyết định sáng suốt được giám đốc điều hành thực hiện về việc chi trả

Trong khi có được một số bằng chứng mà mua lại được sử dụng để giảm nắm giữ tiền mặt dư
thừa (phù hợp với nghiên cứu Jensen (1986) giả thuyết tự do dòng chảy tiền mặt), chúng tui thấy không
có bằng chứng rằng các nhà quản lý sử dụng chính sách cổ tức để thu hút khách hàng đầu tư một đặc
biệt mà có thể theo dõi hành động của họ (như trong nghiên cứu Allen, Bernardo và Welch (2000)).
Giám đốc điều hành tin rằng cổ tức hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân, nhưng mà cổ tức và mua lại
đều có giá trị hấp dẫn như nhau cho các tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các giám đốc điều hành nói rằng
họ không sử dụng chính sách thanh toán như một công cụ trong một nỗ lực để làm thay đổi tỷ lệ của
các tổ chức giữa các nhà đầu tư của họ
Các nhà điều hành cho rằng rằng thuế là mối quan tâm thứ hai về chính sách chi trả. Hầu hết cho
rằng thuế không phải là một yếu tố chi phối quyết định của mình về việc chi trả cổ tức, tăng cổ tức,
hay trong sự lựa chọn của họ giữa chi trả theo hình thức mua lại hay cổ tức. Một cuộc khảo sát tiếp
theo được tiến hành trong tháng 6/2003, sau khi pháp luật về thuế thông qua việc giảm thuế cổ tức,
củng cố thêm tầm quan trọng thứ hai để đánh thuế. Trong khi một thiểu số của các giám đốc điều hành
trong cuộc điều tra đó nói rằng giảm thuế cổ tức sẽ dẫn đến tăng cổ tức tại các công ty của họ, hơn hai
phần ba nói rằng việc giảm thuế cổ tức sẽ chắc chắn không phải hay có thể không ảnh hưởng đến
quyết định chia cổ tức của họ
Phần tiếp theo sau đây. Mục 2 mô tả các mẫu và trình bày các số liệu thống kê tóm tắt. Mục 3
điều tra sự tương tác của cổ tức, mua lại cổ phiếu, và các quyết định đầu tư. Mục 4 so sánh thực hành
chính sách thanh toán đầu thế kỷ 21 với một nửa thế kỷ trước khi Lintner (1956) đã tiến hành phân tích
kinh điển của mình. Ngoài ra các bằng chứng khảo sát, Mục 4 sử dụng hồi quy để ước tính tốc độ điều
chỉnh và các thông số thanh toán mục tiêu và kết luận rằng tầm quan trọng của mục tiêu tỷ lệ thanh
toán đã giảm trong những thập kỷ gần đây. Mục 5 phân tích giám đốc điều hành hiện đại "về chính
sách thanh toán phù hợp với các lý thuyết khác nhau đã được đề xuất để đoán cổ tức và các quyết
định mua lại. Mục 6 thảo luận về các yếu tố mà các giám đốc tài chính và Ngân quỹ của các công ty
không thanh toán, cuối cùng có thể khuyến khích các công ty của họ để bắt đầu phân chia cổ tức hoặc
mua lại. Mục 7 kết luận và tóm tắt các "quy tắc của trò chơi" có ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định
của công ty
2. Tóm tắt các mẫu áp dụng và phương pháp thống kê:

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top