li0_isee

New Member

Download miễn phí Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam trong điều kiện hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO





Ngày nay, nếu đi trên các đường phố các bạn sẽ bắt gặp rất nhiều quán cà phê Trung Nguyên và nó luôn có phong cách riêng. Nhiều chuyên gia kinh tế đã công nhận cà phê Trung Nguyên là một thành công kỳ diệu của việc xây dựng thương hiệu tại Việt Nam. Chỉ trong vài năm từ 1999 là một xưởng sản xuất nhỏ tại Buôn Mê Thuật, hiện nay Trung Ngưyên đã khẳng định sự có mặt của mình khắp mọi miền đất nước.

Thế mới biết Trung Nguyên, một thương hiệu mới xuất hiện mà có sức hấp dẫn biết dường nào. Đến năm 2001, đã có trên 400 quán cà phê trong cả nước bởi vì ông chủ Trung Nguyên – Đặng Lê Nguyên Vũ rất biết chiều lòng khách hàng khi đã biết khám phá và trình làng trên 30 loại cà phê có những hương vị độc đáo riêng. Với tính đa dạng của sản phẩm đã tạo cho người thưởng thức có dịp làm quen với nhiều cà phê độc đáo, rất riêng chỉ tìm thấy ở Trung Nguyên. Không chỉ dừng lại ở đó, vào năm 2002 tại Tokyo, quán cà phê Trung Nguyên lần đầu tiên xuất hiện. Ở đây cà phê Trung Nguyên có sức cạnh tranh lớn, mỗi tách cà phê chính hiệu của Trung Nguyên cao hơn cà phê của Nhật 25% và cao hơn cả tập đoàn cà phê Mỹ Sarrbucks đầy uy lực 50%. Đặc biệt cà phê Trung Nguyên thực sự bước vào hành lang Đông Tây mà bước đột phá ngoạn mục là G7. Đó chính là mũi tên nhằm hướng vào G7, những quốc gia giàu có, phát triển nhất thế giới và chiếm lĩnh được thị trường của các đại gia lừng danh thế giới này. Cà phê Trung Nguyên sẽ làm cho vị thế cà phê Việt Nam trở nên vững chắc, tạo lập một thế đứng cho cà phê Việt trên thị trường quốc tế rộng lớn, đầy tiềm năng. Đến nay, cà phê Trung Nguyên đã có vị thế ở thị trường Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Séc





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


hơn cả là công ty Olam (100% vốn nước ngoài) xuất khẩu 21.326 tấn; công ty Dakman (liên doanh) xuất khẩu 18.076 tấn; VINAFIMEX xuất khẩu 13.719 tấn.
Với tổng diện tích đạt trên 500.000 ha và sản lượng trên 10 triệu tấn mỗi năm, cà phê hiện nay được xếp sau gạo trong danh mục hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Để đạt được sản lượng cao như vậy, ngành cà phê Việt Nam thu hút được khoảng 300 nghìn hộ gia đình với trên 600 nghìn lao động, đặc biệt vào tháng 3 thu hoạch con số này có thể lên tới 700.000 - 800.000. Như vậy, số lao động của ngành cà phê đã đạt 7,83% tổng số lao động của toàn quốc nói chung và 2,93% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp nói riêng.
1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê Việt Nam
Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra với nhưng bước khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn 2 tỉnh Đăclăk và Gia Lai Kom Tum. Ở Tây Nguyên vào thời gian này, cả nước mới chỉ có không đầy 20.000 ha tăng trưởng kém, năng suất thấp, với sản lượng chỉ khoảng 4.000 - 5.000 tấn. Đế nay vào năm 2000 cả nước có 500.000 ha cà phê, hầu hết sinh trưởng khoẻ năng suất cao, tổng sản lượng đạt 80 vạn tấn. Những con số đó vượt xa mọi suy nghĩ, mọi mục tiêu chiến lược của ngành. Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đến nay, năm 1992 giá cà phê thế giới tụt xuống rất thấp do các nước sản xuất cà phê trên thế giới tung lượng cà phê tồn kho từ những năm trước do tổ chức cà phê thế giới quốc tế còn áp dụng chế độ hạn ngạch xuất khẩu. Sau năm 1992 giá cà phê lại phục hồi dần đạt tới đỉnh cao năm 1994, 1995. Lúc này, người nông dân, gia đình cán bộ công nhân viên ở Tây Nguyên và cả những người ở thành phố Nha Trang đến thành phố Hồ Chí Minh xô đi tìm đất, mua vườn làm trang trại trồng cà phê, dẫn đến sản lượng cà phê qua từng năm. Nhưng sau đó vào năm niên vụ 2000/2001 thì giá cà phê lại giảm mạnh chỉ còn hơn 400 USD/tấn và ngay lập tức phản ứng của người dân đã phá bỏ cà phê để trồng các cây khác làm diện tích cà phê bắt đầu giảm từ 556.000 ha niên vụ 2000/2001 còn 491.100 niên vụ 2005/2006. Và đến niên vụ vừa qua thì diện tích cà phê lại tăng trên 500.000 ha. Ta có thể thấy sự biến động quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam qua con số diện tích, sản lượng và năng suất cà phê sau:
Bảng 4: Diễn biến diện tích, năng suất, sản lượng cà phê Việt Nam
qua các niên vụ như sau:
Niên vụ
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Năng suât (tấn/ha)
1993/1994
150.000
181.200
1,208
1994/1995
215.000
211.920
0,986
1995/1996
295.000
236.280
0,801
1996/1997
350.000
342.300
0,978
1997/1998
410.000
413.580
1,009
1998/1999
460.000
404.206
0,879
1999/2000
520.000
700.000
1,346
2000/2001
556.000
900.000
1,590
2002/2003
522.200
699.500
1,340
2003/2004
510.200
739.700
1,445
2004/2005
496.800
896.000
1,805
2005/2006
491.400
890.700
1,812
2006/2007
501.300
813.100
1,622
Nguồn: Hiệp hội cà phê - ca cao Việt Nam
Cùng với sự biến động của diện tích trồng cà phê thì sản lượng và năng suất cà phê cũng có biến động mạnh. Khi diện tích trồng cà phê lớn nhất vào niên vụ 2000/2001 cũng là lúc sản lượng cà phê cũng đạt được những con số cao nhất tương ứng là: 900.000 tấn và năng suất đạt cao nhất và niên vụ 2005/2006 là:1,812 tấn/ha.
1.3. Chế biến và chất lượng cà phê
Về chế biến, sau năm 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có ít xưởng chế biến cũ kĩ, chắp vá, ở phía Bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ 1960 - 1962 do Cộng Hoà Dân Chủ Đức chế tạo, ở phía nam có một số xưởng của doanh điện cũ như Rissi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta đã bắt tay và xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây truyên sản xuất sao chép của nhà máy cơ khí 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghệ ở Thủ Đức – Tp Hồ Chí Minh. Gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ Đức và Brazil. Một loạt hơn chục dây truyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense - Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó, lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở Công Nghệ Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil.
Cơ sở chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây dựng trong vòng 5,7 năm trở lại đây đảm bảo chế biến được khoảng 150.000 tấn đến 200.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu.
Hiện nay, sản lượng cà phê chủ yếu là cà phê vối Rusbuta với phương pháp chế biến chủ yếu là chế biền khô, cà phê thu hái về được phơi khô nhờ tận dụng năng lượng mặt trời. Đối với những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch người ta phải sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi…cũng có một số doanh nghiệp dùng máy đánh nhớt một phần nhỏ sản lượng cà phê là cà phê Arabica các doanh nghiệp nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt. Không ít nơi dùng máy chọn màu Sarbex trong khâu phân koại, loại bỏ cà phê hạt đen, nâu…góp phần nâng cao chất lượng cà phê.
Về chất lượng, Việt Nam đã có một sản lượng cà phê khá lớn với phẩm chất thơm ngon vốn có của giống nội địa. Tuy nhiên, cà phê hạt xuất khẩu lai không có chất lượng tương xứng và vì vậy thua thiệt về giá cả sản xuất so với các nước khác. Một thời gian dài trước đây, công nghệ chế biến cà phê không được quan tâm đầy đủ, có sự thiếu sót về nhận thức, có khó khăn về vốn đầu tư, trình độ thấp kém chậm đổi mới…Làm cho tổn thất sau thu hoạch khá lớn (không dưới 10%) và có những cơ sở sản xuất tổn thất nghiêm trọng thất thu hàng chục tỷ đồng vì chất lượng hạt xấu. Mặt khác, hơn 80% cà phê sản xuất ra là từ hộ nông dân sản xuất nhỏ thiếu điều kiện sơ chế tối thiểu. Đồng thời, cà phê xuất khẩu nước ta chủ yếu là cà phê nhân, thô chưa thật sự là cà phê thành phẩm nên giá trị xuất khẩu chưa cao.
1.4. Chi phí sản xuất, chế biến, vận chuyển cà phê Việt Nam xuất khẩu
Sản lượng cà phê tăng nhanh nhưng tới nay ngành cà phê Việt Nam vẫn còn ít cơ sở chế biến vào loại hoàn chỉnh đó cũng là nguyên nhân làm cho chi phí chế biến cà phê xuất khẩu tăng nhanh (tổn thất hạt trên 10%). Tổng công suất của các cơ sở chế biến này cũng chỉ đảm bảo được khoảng từ 20 - 25% sản lượng cà phê. Số còn lại được chế biến phân tán thủ công hay bằng các nông trường nhỏ theo phương pháp thủ công hay các thiết bị không đồng bộ. Loại cà phê chế biến như vậy gọi là “cà phê xô”, được bán với giá thấp cho các nhà buôn nước ngoài có cơ sở tái chế để phân loại lại và trước khi cung cấp cho rang xay. Chi phí phân loại và chi phí bù đắp rủi ro phân loại thường khá lớn (khoảng 40USD/tấn) nên cà phê Việt Nam thường được bán với giá thấp hơn cà phê Inđônêxia - nơi có cơ sở chế biến và phân loại tốt hơn. Đó là chưa kể tới việc những năm mất mùa hay sâu bệnh có khi mất trắng gây không những tổn thất cho người nông dân mà khi đó còn gây ra tình trạng khan hiếm cà phê cho các cơ sở chế biến dẫn đến chi phí đầu vào ở các nớ...

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
P [Free] Một số vấn đề về Thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng đầu tư và phát triển Cao Bằng - Luận văn Kinh tế 0
K [Free] Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch I ngân h Luận văn Kinh tế 0
R [Free] Một số ý kiến về tăng thu nhập , tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân Luận văn Kinh tế 0
M [Free] Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Luận văn Kinh tế 0
Y [Free] Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệ Luận văn Kinh tế 0
T [Free] Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triể Luận văn Kinh tế 0
A [Free] Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung- Dài hạn tại Chi nhánh ngân hàng đầu tư p Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương Luận văn Kinh tế 0
N [Free] Huy động vốn & một số giải pháp mở rộng huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và p Luận văn Kinh tế 0
B [Free] Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thươ Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top