tctuvan

New Member
Giáo trình luật ngân hàng

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về luật ngân hàng trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Chương 2: Địa vị pháp lý của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Chương 3: Địa vị pháp lý của các tổ chức tín dụng
Chương 4: Pháp luật về tín dụng ngân hàng

GT Luat ngan hang
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG TRONG HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG, NGÂN HÀNG VÀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
1 Sự hình thành của hoạt động ngân hàng và các ngân hàng:
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của
tiền tệ. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, để đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa, người ta
đã “sáng tạo” ra tiền tệ đóng vai trò là vật ngang gia chung. Trước đây, đối với nền kinh tế hàng hóa
giản đơn, cách trao đổi sơ khai “hàng đổi hàng” được các bên áp dụng. Tuy nhiên, cách
này chỉ khả thi khi cả hai bên cùng lúc có nhu cầu về hàng hóa của nhau một cách tương thích. Do vậy,
nhiều trường hợp cách “hàng đổi hàng” trở nên không hữu hiệu trong khi nhu cầu trao đổi giữa
các bên vẫn có. Theo thời gian, hoạt động lưu thông, trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, một
cách trao đổi tiến bộ hơn đã được áp dụng, đó là “hàng-vật ngang giá chung-hàng”. Thực chất,
các vật ngang giá chung đó mang bản chất của tiền và được xem như hình thức sơ khai đầu tiên của
tiền tệ. Ở giai đoạn đầu, vật ngang giá chung-tiền được các bên ấn định là vật có giá trị thực chẳng hạn
như da thú, kim loại, vỏ sò….Về sau, để giản tiện và ít tốn công bảo quản, người ta đã biết đến hình
thức của tiền tiến bộ hơn. Theo đó, các bên có thể quy ước với nhau về vật ngang giá chung mang tính
chất ước lệ, không nhất thiết phải là vật có giá trị thực chẳng hạn như tiền kim loại, tiền giấy…
Sự xuất hiện của tiền tệ càng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông mua bán hàng hóa.
Hoạt động trao đổi ngày càng phát triển, vượt ra khỏi phạm vi giữa một vùng, khu vực, quốc gia nhất
định. Các thương nhân có thể mang hàng hóa tiến hành trao đổi giữa các vùng lãnh thổ, khu vực khác
nhau. Tuy nhiên, theo đặc trưng vùng miền, tập quán, xã hội tồn tại nhiều hình thức tiền tệ đóng vai trò
là vật ngang giá chung khác nhau. Do đó, nhu cầu chuyển đổi tiền tệ phù hợp với từng vùng, nơi mà
các thương nhân đến trao đổi hàng hóa đã nảy sinh. Nhằm thỏa mãn nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng
hóa phát triển liên tục xã hội xuất hiện những thương nhân đầu tiên chuyên thực hiện dịch vụ trao đổi
chính vật ngang giá chung-tiền tệ. Để xác nhận dịch vụ trao đổi tiền đã được thực hiện, các thương
nhận nhận chuyển đổi tiền sẽ phát hành chứng thư mang bản chất của biên nhận về gửi, giữ tài sản là
tiền tệ. Về sau, cùng với chế độ tư hữu hóa làm xuất hiện giai cấp và phân biệt giữa những người nắm
giữ nhiều tài sản với những người sỡ hữu ít ỏi số tài sản xã hội dưới hình thức giá trị là tiền đã làm nảy
sinh những mâu thuẫn về cung, cầu liên quan đến việc sử dụng tiền tệ. Những thương nhân nhận cất
giữ trong kho loại tài sản được đưa ra làm vật ngang chung vô hình chung trở thành những chủ thể
trung gian có thể tạm thời giải quyết được mâu thuẫn giữa những người đang có nhu cầu về tiền với
những thành viên còn lại đang tạm thời nhàn rỗi tiền tệ kiếm được trong quá trình sản xuất, lưu thông,
trao đổi hàng hóa. Những thương nhân này không chỉ thuần túy làm dịch vụ kho quỹ mà còn làm trung
gian thanh toán, thực hiện dịch vụ nhận, sử dụng cho vay những đồng tiền đang tạm thời nhàn rỗi. Các
thương nhân này trở thành những người đầu tiên kinh doanh tiền tệ. Nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy, nghề ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở miền Bắc Italia vào thời kỳ trung cổ. Người Italia gọi nghề
kinh doanh này là “Banco”.
1

Có thể thấy rằng, bắt đầu từ việc vật ngang giá chung xuất hiện trong mua bán, trao đổi hàng hóa,
các quan hệ và hoạt động kinh doanh dịch vụ trao đổi liên quan trực tiếp đến vật ngang giá chung đã
được hình thành. Khi vật ngang giá chung được cố định bằng những vật liệu có giá trị nội tại cao và có
nhiều thuộc tính tự nhiên thuận tiện cho việc bảo quản, chia nhỏ cũng như lưu hành, khi đó vật ngang
giá chung chính thức được xem là tiền tệ. Cùng với nó là sự xuất hiện của những thương gia chuyên
kinh doanh những dịch vụ này mang tính chất của hoạt động ngân hàng và những ngân hàng ở giai
đoạn sơ khai. Chính sự ra đời của ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ là kết quả phân công lao
động xã hội trong lưu thông tiền tệ và thực hiện chức năng của tiền tệ.
2

Trong lịch sử, quá trình phát triển của các mô hình ngân hàng và các loại hình tín dụng có mối
quan hệ mật thiết với quá trình phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Cho đến thế kỷ 15,
những tổ chức chuyên kinh doanh các dịch vụ liên quan đến tiền tệ phục vụ cho quá trình trao đổi mua
bán chính thức được thành lập và được gọi tên là ngân hàng. Ở giai đoạn này, hoạt động của các ngân
hàng vẫn mang tính riêng lẽ, biệt lập, chưa hình thành nên một hệ thống, chưa có sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau. Mỗi ngân hàng đều có những hoạt động nghiệp vụ như phát hành tiền, nhận tiền gửi,
cho vay, làm dịch vụ thanh toán, chuyển đổi tiền. Mô hình ngân hàng được thực hiện tất cả các dịch vụ
từ phát hành tiền cho đến các hình thức dịch vụ khác một cách song song được gọi là mô hình ngân
hàng một cấp.
Đến cuối thế kỷ 19, sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển cao hơn đòi hỏi phạm vi và không
gian trao đổi phải được mở rộng hơn nữa. Với mô hình ngân hàng một cấp, trong cùng một quốc gia có
thể tồn tại cùng lúc nhiều loại tiền tệ khác nhau, tương ứng với những ngân hành phát hành khác nhau.
Sự tồn tại cùng lúc các loại tiền tệ dưới hình thức kỳ phiếu ngân hàng ở phạm vi một quốc gia đã gây
trở ngại cho sản xuất, lưu thông hàng hóa, dẫn đến tình trạng thừa tiền, lạm phát. Do vậy, ở một số
quốc gia, nhà nước đã can thiệp để tháo gỡ trở ngại này bằng cách chỉ cho phép một số ngân hàng thỏa
mãn một số điều kiện nhất định mới được phép phát hành tiền đưa vào lưu thông. Các ngân hàng không
đủ điều kiện để phát hành tiền dưới dạng kỳ phiếu ngân hàng thì chỉ được tiến hành các nghiệp vụ kinh
doanh ngân hàng như nhận tiền gửi, cho vay, chuyển, đổi tiền… Như vậy, hoạt động ngân hàng đã hình
thành hai hệ thống ngân hàng: ngân hàng phát hành và ngân hàng trung gian. Điều này đã dẫn đến quá
trình chuyển đổi mô hình ngân hàng một cấp sang mô hình ngân hàng hai cấp. Theo đó mô hình ngân
hàng hai cấp sẽ có sự phân biệt giữa ngân hàng thực hiện hoạt động phát hành tiền với những ngân
hàng còn lại chỉ được phép tiến hành các hoạt động ngân hàng thuần túy mà không được phép phát
hành tiền.
Đến cuối thế kỷ 19, hệ quả của việc phát triển mạnh mẽ của lưu thông hàng hóa và tiền tệ và yêu
cầu ngăn chặn hiện tượng lạm phát có thể gia tăng đã đòi hỏi thống nhất thị trường tiền tệ sao cho mỗi
quốc gia chỉ lưu hành một đồng tiền duy nhất và nhà nước phải kiểm soát được lượng tiền tệ lưu thông.
Do vậy, nhiều nước đã ban hành pháp luật quy định chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép
tiến hành hoạt động phát hành tiền. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng phát hành tiền và phân biệt
với các ngân hàng trung gian còn lại không được phép phát hành tiền. Từ đặc quyền do nhà nước quy
định, ngân hàng phát hành tiền ngay càng có vị trí quan trọng trong nền sản xuất, lưu thông hàng hóa
cũng như tác động chi phối đến hệ thống các ngân hàng trung gian. Chính vì lẽ đó, để định hướng hoạt
động sản xuất, thương mại và kiểm soát được lượng tiền tệ phát hành, lưu thông nhằm kiểm soát được
hiện tượng lạm phát, nhà nước đã sử dụng quyền lực chính trị để có thể chi phối được ngân hàng phát
hành tiền. Hiện tượng này bắt đầu cho quá trình quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Từ đầu thế kỷ
XX và phổ biến là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), hầu hết các quốc gia đã thực hiện việc
quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Theo đó, ngân hàng này trở thành ngân hàng trung ương, ngân
hàng nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất lưu thông và mang bản chất là
“ngân hàng của các ngân hàng”. Ngân hàng trung ương ngoài đặc quyền phát hành tiền còn là trung
tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán tổng mà các ngân hàng khác phải mở tài khoản thanh toán, làm dịch
vụ tiền tệ cho Chính phủ.
2. Khái niệm ngân hàng, hoạt động ngân hàng:
Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi
tiền tệ đã ra đời và nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ. Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân
hàng chịu sự tác động bởi những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia trong
từng giai đoạn nhất định. Cho nên, quan niệm về ngân hàng, hoạt động ngân hàng cũng rất đa dạng.
Trong tài liệu nghiên cứu và văn bản pháp luật của nhiều nước, khái niệm ngân hàng thường được
dùng để chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, các đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
ngân hàng của nhiều quốc gia hầu như đều có điều luật ghi nhận những hoạt động được xem là hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Ở một số nước, pháp luật không đưa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động
ngân hàng mà liệt kê các hoạt động được pháp luật thừa nhận là hoạt động ngân hàng.
3

Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động ngân hàng được dùng để chỉ các hoạt động kinh doanh tiền tệ
và làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
4
Theo đó, ngân hàng được ghi nhận là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện các hoạt động ngân hàng và những hoạt động kinh doanh khác có liên quan đến
hoạt động ngân hàng.
5
Như vậy, theo cách hiểu của các nhà làm luật, ngân hàng là một định chế tài
chính, một tổ chức trung gian tài chính gắn liền với hoạt động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân
hàng.
Từ khái niệm ngân hàng nói chung, theo mô hình ngân hàng hai cấp hiện hành mà hầu hết các
nước đang áp dụng, khái niệm ngân hàng được phân biệt thành khái niệm ngân hàng trung ương và
ngân hàng trung gian (các chương tiếp theo sẽ trình bày cụ thể hơn).
II. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1.Giai đoạn 1945-1951:
Trong suốt thời kỳ phong kiến cho đến nửa đầu thế kỷ 19, Việt Nam hầu như không tồn tại định
chế ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng như in đúc, cho vay đã xuất hiện
trong đời sống kinh tế xã hội.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu cho giai đoạn thực dân nửa phong kiến ở
Việt Nam. Với mục đích đô hộ lâu dài và nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương phục vụ cho
chính quyền thuộc địa, tổng thống Pháp giai lúc bấy giờ đã ban hành Sắc lệnh ngày 21/01/1857 thành
lập ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng này có chức năng chủ yếu là phát hành tiền, tiến hành cho vay,
chiết khấu. Về bản chất, ngân hàng Đông Dương là ngân hàng thương mại cổ phần với chức năng đổi
tiền, cho vay tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng là ngân hàng được phép phát hành tiền trên toàn cõi Đông
Dương. Giai đoạn này, nó được xem như một công cụ cung cấp phương tiện để thực dân Pháp có thể
tiến hành đầu tư, kinh doanh, cũng như cung cấp các dịch vụ tiền tiền tệ cho chính quyền đô hộ.
Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 23/11/1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I đã
quyết định giao cho Bộ Tài chính phát hành giấy bạc Việt Nam trong phạm vi cả nước.

LInk download cho anh em:

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top