xs_os_xxx183

New Member
LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG ANH

(và nói chung: MỘT NGOẠI NGỮ)


Một trong những trở ngại lớn nhất của chúng ta khi học một ngoại ngữ ấy là chúng ta quá… thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm.


Quá thông minh: vì mình bất thể nào chấp nhận nghe một câu mà mình bất hiểu: nên phải hiểu một câu nói gì trước khi nghe tiếp câu thứ hai, nếu bất thì mình bất buồn nghe tiếp.


Quá kinh nghiệm: Cuộc đời vừa dạy ta bất nghe những gì người khác nói mà chỉ hiểu những gì mà nội dung chuyển tải. Nếu bất hiểu nội dung, chúng ta bất thể lặp lại lời người kia. Cũng vì thế mà - trong giai đoạn đầu học ngoại ngữ - mỗi lần nghe một câu tiếng Anh thì trong đầu phải dịch ra được tiếng Việt thì mới yên tâm, bằng bất thì … câu ấy bất có nghĩa.


Thế nhưng, đấy là lối học sinh ngữ ngược chiều. tui biết được 6 ngôn ngữ, trong đó có ba ngôn ngữ thành thạo nghe nói đọc viết: Việt - Anh - Pháp, và tui thấy rằng trong các ngôn ngữ tui biết thì, một cách khách quan, nghe và nói tiếng Việt là khó nhất (vì ở phương tây, bất có ngôn ngữ nào mà mình đổi cao độ của một từ thì ý nghĩa từ ấy lại thay đổi: ma - má - mà - mạ - ngựa - mả). Nhưng các bạn ở forum này, cũng như tôi, đều bất có vấn đề gì cả với cái sinh ngữ khó vào bậc nhất ấy!


Tuy nhiên, những thầy cô dạy chúng ta nghe nói tiếng Việt chẳng phải là những vị chuyên viên ngôn ngữ như các thầy cô ngoại ngữ mà ta học tại các trường. Thầy dạy tiếng Việt chúng ta là tất cả những người quanh ta từ ngày ta ra đời: cha mẹ, anh chị, hàng xóm, bạn bè… nghĩa là lớn đa số những người chưa có một giờ sư phạm nào cả, thậm chí bất có một khái niệm nào về văn phạm tiếng Việt. Thế mà ta nghe tiếng Việt thoải mái và nói như sáo. Còn tiếng Anh thì bất thể như thế được. Ấy là vì đối với tiếng Việt, chúng ta học theo tiến trình tự nhiên, còn ngoại ngữ thì ta học theo tiến trình phản tự nhiên.


Từ lúc sinh ra chúng ta vừa NGHE tất cả người nói tiếng Việt chung quanh (mà chẳng bao giờ ta phản đối: "tui chẳng hiểu gì cả, đừng nói nữa"! Mới sinh thì biết gì mà hiểu và phản đối!). Sau một thời (gian) gian dài từ 9 tháng đến 1 năm, ta mới NÓI những tiếng nói đầu tiên (từng chữ một), mà bất hiểu mình nói gì. Vài năm sau vào lớp mẫu giáo mới học ĐỌC, rồi vào lớp 1 (sáu năm sau khi bắt đầu nghe) mới tập VIẾT… Lúc bấy giờ, dù chưa biết viết thì mình vừa nghe đưọc tất cả những gì người lớn nói rồi (kể cả điều mình chưa hiểu). Như vậy, tiến trình học tiếng Việt của chúng ta là Nghe - Nói - Đọc - Viết. Giai đoạn dài nhất là nghe và nói, rồi sau đó từ vựng tự thêm vào mà ta bất bao giờ bỏ thời (gian) gian học từ ngữ. Và ngữ pháp (hay văn phạm) thì đến cấp 2 mới học qua loa, mà khi xong trung học thì ta vừa quên hết 90% rồi.


Nhưng tiến trình ta học tiếng Anh (hay bất cứ ngoại ngữ nào) thì trả toàn ngược lại.


Thử nhìn lại xem: Trước tiên là viết một số chữ và chua thêm nghĩa tiếng Việt nếu cần. Và kể từ đó, học càng nhiều từ vựng càng tốt, kế đến là học văn phạm, rồi lấy từ vựng ráp vào cho đúng với văn phạm mà VIẾT thành câu! Rồi loay hoay sửa cho đúng luật! Sau đó thì tập ĐỌC các chữ ấy trúng được chừng nào hay chừng ấy, và nhiều khi lại đọc một âm tiếng Anh bằng một âm tiếng Việt! (ví dụ fire, fight, five, file… đều được đọc là ‘phai’ ). Sau đó mới tới giai đoạn NÓI, mà ‘nói’ đây có nghĩa là Đọc Lớn Tiếng những câu mình viết trong đầu mình, mà bất thắc mắc người đối thoại có hiểu 'message' của mình hay bất vì mình chỉ lo là nói có sai văn phạm hay không. Lúc bấy giờ mới khám phá rằng những câu mình viết thì ai cũng hiểu, như khi mình nói thì chỉ có mình và … Thượng Đế hiểu thôi, còn người bản xứ (tiếng Anh) thì ‘huh - huh’ dài cổ như cổ cò! Thế là học nói bằng cách sửa đổi phát âm những từ nào chưa chuẩn cho đến khi người khác có thể hiểu được.


Sau thời (gian) gian dài thật dài, mình khám phá rằng mình từng biết tiếng Anh, và nói ra thì người khác hiểu tàm tạm, nhưng khi họ nói thì mình bất nghe được gì cả (nghĩa là nghe bất hiểu gì cả). Lúc bấy giờ mới tập NGHE, và rồi đành bỏ cuộc vì cố gắng mấy cũng bất hiểu được những gì người ta nói.


Vấn đề là ở đó: chúng ta vừa học tiếng Anh ngược với tiến trình tự nhiên, vì quá thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm. Tiến trình ấy là Viết - Đọc - Nói - Nghe!


Vì thế, muốn nghe và nói tiếng Anh, chuyện đầu tiên là phải quên đi kinh nghiệm và trí thông minh, để trở lại trạng thái ‘sơ sinh và con nít’, và đừng sử dụng quá nhiều chất xám để phân tích, lý luận, dịch thuật!


Và đây là bí quyết để Nghe:


A. Nghe thụ động:


1. - ‘Tắm’ ngôn ngữ.

Nghe bất cần hiểu: Hãy nghe! Đừng hiểu.

Bạn chép vào CD một số bài tiếng Anh (vì dụ từ trên forum này). Mỗi bài có thể dài từ 1 đến 5 phút.


Khi nào bạn ở nhà một mình, thì mở các bài đó ra vừa đủ nghe, và cứ lặp đi lặp lại mãi ra rả như âm thanh nền suốt ngày. Bạn bất cần để ý đến nó. Bạn cứ làm chuyện của mình, đánh răng, rửa mặt, học bài làm bài, vào internet… với tiếng lải nhải của bài tiếng Anh. (thậm chí, trong lúc bạn ngủ cũng có thể để cho nó nói).


Trường hợp bạn có CD player, USB player hay iPod, thì đem theo để mở nghe khi mình có thời (gian) gian chết - ví dụ: di chuyển lâu giờ trên xe, đợi ai hay đợi đến phiên mình tạiphòng chốngmạch.


Công chuyện ‘tắm ngôn ngữ’ này rất quan trọng, vì cho ta nghe đúng với từng âm của một ngôn ngữ lạ. Tai của chúng ta bắt rất nhanh một âm quen, nhưng loại trừ những âm lạ. Ví dụ: Nếu bạn nghe câu: ‘mặt trời mọc cánh khi chim voi truy cập chén chó’, một câu trả toàn không nghĩa, nhưng bảo bạn lặp lại thì bạn lặp lại được ngay, vì bạn vừa quá quen với các âm ấy. Nhưng khi một người nói một câu bằng chừng ấy âm (nghĩa là 11 âm/vần), trong ngôn ngữ bạn chưa từng học, và bảo bạn lặp lại thì bạn bất thể nào lặp lại được, và bảo rằng… bất nghe được! (Bạn có điếc đâu! Vấn đề là tai bạn bất nhận ra được các âm!) Lối 'tắm ngôn ngữ' đó chỉ là vấn đề làm quen đôi tai, và sau một thời (gian) gian (lâu đấy chứ bất phải vài ngày) bạn sẽ bắt được các âm của tiếng Anh, và thấy rằng âm ấy rất dễ nghe, nhưng trả toàn khác với âm Việt. Đừng nản lòng vì lâu ngày mình vẫn bất phân biệt âm: hãy nhớ rằng bạn vừa tắm ngôn ngữ tiếng Việt ít ra là 9 tháng liên tục ngày đêm trước khi mở miệng nói được tiếng nói đầu tiên và hiểu được một hai tiếng ngắn của cha mẹ; và sau đó lại tiếp tục 'tắm ngôn ngữ' Việt cho đến 4, 5 năm nữa!


2 - Nghe với hình ảnh động.

Nếu có giờ thì xem một số tin tức bằng tiếng Anh (một điều khuyên tránh: đừng xem chương trình tiếng Anh của các đài Việt Nam, ít ra là giai đoạn đầu, vì xướng ngôn viên Việt Nam, phần lớn, nói rất gần với âm Việt Nam (kể cả pronunciation), nên mình dễ quen nghe, và từ đó lỗ tai mình lại hỏng, về sau lại khó nghe người bản xứ nói tiếng Anh - thế là phải học lại lần thứ hai!). Các hình ảnh đính kèm làm cho ta ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung bản tin, mà bất nên phải ‘dịch’ từng câu của những gì xướng ngôn viên nói. Bạn sẽ yên tâm hơn, sau khi nghe 15 phút tin tức, tự tóm lược lại, thì thấy rằng mình vừa nắm bắt được phần chính yếu của nội dung bản tin. Và đây là cách thứ hai để tắm ngôn ngữ.


B. Nghe chủ động.


1. Bản tin special english:- Thu một bản tin, và nghe lại rồi chép ra nhiều chừng nào hay chừng nấy… nhớ là đừng tra cứu tự điển hay tìm hiểu nghĩa vội. Đoán nghĩa trong nội dung câu, và nhớ lại âm thanh của từ, hay cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu trở đi trở lại hoài.


(Ngày xưa, trên đài VOA, sau mỗi chương trình tui thường nghe một cụm từ tương tự như: statue, statute hay statu gì đó, mà bất biết viết thế nào, tuy vẫn hiểu lớn loại là: hãy đợi đấy để nghe tiếp. Mãi sau này tui mới biết rằng thuật ngữ rất quen thuộc ấy là 'stay tuned', nhưng một thời (gian) gian dài, chính tả của chữ ấy đối với tui không thành vấn đề!)


2. Chăm chú nghe lại một số bài mình từng nghe trong giai đoạn ‘tắm ngôn ngữ’- Lấy lại script của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại trong tưởng tượng lời đọc mà mình từng nghe nhiều lần.


Sau đó xếp bản script và nghe lại để hiểu. Lần này: tự nhiên mình sẽ nghe rõ từng tiếng và hiểu. Trường hợp bất hiểu một từ hay cụm từ, thì gắng lặp lại nhiều lần đúng như mình vừa nghe, sau đó lật lại script để so sánh.


3. Audio: nghe nhiều lần, trước khi đọc script. Sau đó, đọc lại script, chủ yếu kiểm tra những từ mình vừa nghe hay đoán, hay những từ mà mình có thể phát âm lại nhưng bất hiểu viết và nghĩa thế nào. Qua chuyện này, nhiều khi ta phát hiện rằng một từ mình rất quen thuộc mà từ xưa đến nay mình cứ in trí là phải nói một cách nào đó, thì thực ra nên phải nói khác hẳn và phát âm như thế thì mới mong nghe đúng và nói cho người khác hiểu. Sau đó, xếp bản script và nghe lại một hai lần nữa. (Ví dụ: hai chữ tomb, bury, khi xưa tui cứ đinh ninh là sẽ phát âm là 'tôm-b(ơ), bơri' - sau này nghe chữ 'tum, beri' tui chẳng hiểu gì cả - dù cho tui nghe rõ ràng là tum, beri -cho đến khi xem script thì mới vỡ lẽ!)


4. Học hát tiếng Anh, và hát theo trong khi nghe.

Chọn một số bài hát mà mình thích, tìm lyrics của nó rồi vừa nghe vừa nhìn lyrics. Sau đó học thuộc lòng và hát song song với ca sĩ, và gắng phát âm cũng như giữ tốc độ và trường độ cho đúng. Khi nào buồn buồn cũng có thể tự hát cho mình nghe (nếu bất có giọng tốt và hát sai giọng một tí cũng bất sao, vì chủ yếu là tập phát âm, tốc độ, trường độ và âm điệu tiếng Anh).


Và nói cho đúng giọng (qua hát) cũng là một cách giúp mình sau này nhạy tai hơn khi nghe, vì thường thường ngôn ngữ trong các bài hát khó nghe hơn những câu nói bình thường rất nhiều.

--------------


Có bạn bảo rằng hiện nay mình chưa hiểu, nên cố gắng nghe nhiều cũng không ích, để mình học thêm, khi nào có nhiều từ vựng để hiểu rồi thì lúc đó sẽ tập nghe sau.


Nghĩ như thế là HOÀN TOÀN SAI. Chính vì bạn chưa hiểu nên mới cần nghe nhiều hơn những người vừa hiểu. Muốn biết bơi thì phải nhảy xuống nước, bất thể lấy lý do rằng vì mình bất thể nổi nên ở trên bờ học cho hết lý thuyết rồi thì mới nhảy xuống, và sẽ biết bơi! Chưa biết bơi mà xuống nước thì sẽ uống nước và ngộp thở đấy, nhưng phải thông qua uống nước và ngộp thở như thế thì mới hy vọng biết bơi.


Muốn biết bơi, thì phải nhảy xuống nước, và nhảy khi chưa biết bơi. Chính vì chưa biết bơi nên mới cần nhảy xuống nước.


Muốn biết nghe và hiểu tiếng Anh thì phải nghe tiếng Anh, nghe khi chưa hiểu gì cả! Và chính vì chưa hiểu gì nên nên phải nghe nhiều.

Hai bài trên, tui nói về chuyện nghe ‘âm thanh’ của tiếng Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với nhau đến nỗi, dù bất hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng cao). Dĩ nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ trời phú nên phân biệt âm thanh rất nhanh. Ví dụ em Wendy Võ, một nhi cùng gốc Việt tại North Carolina (tên Việt Nam là Võ thị Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà vừa nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản nhạc. Em có tiềm năng lặp lại một câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà bất cần hiểu nghĩa. Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời (gian) gian để phân biệt các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có tiềm năng này, bằng chứng là bất một người nào trên trái đất (trừ người điếc) là bất thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.


Nếu thời (gian) gian qua, các bạn vừa lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến nay, hẳn bạn vừa nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay cụm từ mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ riêng (của các nhân vật, các đất danh … ), và những từ mình vừa quen thuộc. Có những đoạn bạn nghe một thời (gian) gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.

Như thế là các bạn vừa nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe một ngôn ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng tương tự như mình nghe nhạc (không lời), hay nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như thế thì bất đáng bỏ công, vì ngôn ngữ cốt là để truyền tin (truyền một thông tin). Nếu ta bất nắm được thông tin bên dưới âm thanh phát ra bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta bất ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì thế, điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh thuần túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’ một thông tin.


Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tui sẽ đi sâu hơn, ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của thông tin qua một chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.

Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh


1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.

tui từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh vừa nghe, rồi dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy bất thông dụng và, trong giai đoạn này, ta bất nên phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà bất hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu sau:


- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.

- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.

- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high pressure into the tiny double reed.


Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là vừa ‘hiểu’ một cách tổng quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng bất phải là trong thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must force air’ thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ bất phải là nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà bất cần biết phải viết thế nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):

The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!

Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ bất nên phải tra từ điển!)


Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng bất có gì sai cho bằng. Nếu bạn học theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình vừa hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn bất phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi, nightingale là một loại chim có tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tui chưa bao giờ thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí bất biết là có phải một loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là nightingale.


2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.

Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai.

- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ tiêu cực’ phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là trả toàn không nghĩa! Nói cách khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng khi người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh bất thể hiểu là ‘negative.’


- Từ đó ta bất thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu bất đặt vào trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu bất để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là bắp!


Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì ta hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol hay gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!


Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tui 30.000 dầu! tui cam đoan là người ta bất thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ bất đổ DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó.


3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.

Trong phần đầu tui nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai, không cùng quan trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một câu nói giao tiếp hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy tình cảm con người, chứ bất phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có thể là điều mình nên phải ‘nghe’ cùng một lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí nghe âm điệu là chính. Nếu bất thì ta hiểu sai, hay bất hiểu gì cả. Đừng tưởng rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét!

Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này bất phải lúc nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: tui căm thù anh; hay Thôi, để tui yên; hay Anh làm tui bực mình; hay trái lại: Anh làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!


Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:

I didn’t say Paul stole my watch!

Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau trả toàn:

I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)

I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)

I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn't SAY) v.v


Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và nói) đúng cao độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng tai nên người Nam và người Trung cùng hóa ? Và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, nên phải nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói.


Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà bất nên phải dịch ra. Ví dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! hay No way! hay You're joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận hay từ chối!


Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ bất chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn, bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn bất hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì bất ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ căng thẳng và giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều.


4. Nghe với những gì một từ bao hàm.

Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng cùng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình cảm (connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có một denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì trả toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a communist!' có thể là một lời khen nồng ấm hay là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy theo connotation của nó.


Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ cùng nghĩa (synonyms). Thế nhưng, bất bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ tương đương trong denotation chứ connotation trả toàn khác (và cũng vì thế mà bất bao giờ có hai từ trả toàn có nghĩa tương tự nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: father/mother bất hoàn toàn là cha/mẹ - và daddy/mummy bất hoàn toàn là ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong các thuật ngữ mình nghe.


Cho đến nay, tui chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe tin tức mà xem phóng sự hay các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của các chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là bất được dùng từ kèm theo tình cảm, và bất được xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ yếu trong tiếng Anh.


(Trái lại thông tín viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là thông tín viên vui mừng hay bực tức, tán cùng hay bất đồng, với nội dung bản tin mình đọc. Còn người viết bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ trước kia, khi nói đến một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên Kennedy’ hay ‘tên tổng thống Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng Thống G. Bush. Trong khi đó, hầu như bất bao giờ nghe trong một bản tin: ‘Cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’ mặc nhiện tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất kính, xem thường’ đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!)


5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm.

Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể phối hợp tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn ngữ giao tiếp; và điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái gì đó vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thơ là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù thích hay bất thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, khó tìm những bài thơ audio, nhưng bất phải là bất có. Tập nghe đọc thơ, dần dần, chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì sao cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy giờ ta mới có quyền nói: tui đã ‘nghe’ được tiếng Anh.


Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu vừa sử dụng âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”:

Những luồng run rẩy rung rinh lá


Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind

I saw you toss the kites on high

And blow the birds about the sky;

And all around I heard you pass,

Like ladies’ skirts across the grass..

Tác giả vừa làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’ nối tiếp và quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy các mệnh phụ lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam trả toàn bất có kinh nghiệm, vì tất cả nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài).


Kết luận:

tui vừa bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’ tiếng Anh. Tuy nhiên, tui lặp lại, những gì tui nói chỉ là lý thuyết, và bất có lý thuyết nào có thế làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và rút ra những phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của mình.


Qua loạt bài này, tui luôn đả phá cách nghe phụ thuộc trên viết và dịch. Thế nhưng, những điều tui đánh giá là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì những thứ ấy bất cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy chuyện đọc script, hay học từ vựng, hay viết thành câu và tra từ điển - như vẫn làm từ trước đến nay - giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp của mình. tui chỉ nhắc lại một điều này:


Tất cả những trợ giúp đó cũng tương tự như chiếc phao cho người tập bơi. Khi tập bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống nước mà tập bơi. Và bất ít người bơi giỏi vừa khởi sự như thế. Bạn cũng vậy, có thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn script - học từ - kiểm tra văn phạm) giúp bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc phao giúp cho bạn nổi, nhưng bất giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và bất cho bạn bơi thoải mái.


Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu bất nó trở thành một trở ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa.

Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu bất chúng sẽ cản trở bạn và bạn bất bao giờ thực sự 'nghe' được tiếng Anh!

Nguồn được lấy từ :Tran Chau Mac

Thanks very much

 

Mabsant

New Member
Bổ sung là bạn cần thực hành nghe và nói nhiều , nếu có môi trường giao tiếp = tiếng anh thì tốt
 

bupbwbaby2006

New Member
òh 1 topic rất rất bổ ích Thank chủ topic nha, t thích học tiếng Anh lắm, và phương pháp học của t cũng gần gần với ý kiến của chủ topic đây, hy vọng các bạn tiếp thu nha
 

barbie_luv_9x

New Member
Mình đang luyện tiềm năng " Tắm ngôn ngữ " tức là dù nghe hok hỉu cũng vẫn phải nghe "cho quen tai" ^.^. Còn sau đây là 1 số trang luyện nghe mà mình được pít ai pít rùi thì đừng chê em nha ! hihi thấy hay thì Click thanks nhé !

 

tuandungpuppy

New Member
Đọc bài này bổ ích quá. Thank chủ topic hen. Mong bạn có thêm nhiều bài hay để anh em, bà con đọc mở mang kiến thức
 
Có 1 bài học là: Phải nghe thực sự bằng tai chứ bất phải bằng mắt. Nghe và nghỉ đến sự vật , sự chuyện ngay chứ bất nghĩ xem nó là chữ gì và phải dịch nó ra bằng được.Luyện tâp hàng ngày đều đặn sẽ tiến bộ.
 

Các chủ đề có liên quan khác

Top