daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Đối với mỗi quốc gia dân tộc, cái quan trọng nhất, cao quí nhất là giá trị văn hoá. Văn
học là một biểu hiện của văn hóa, sản phẩm của văn hoá. Là một dạng văn hoá tinh thần, văn học chính là nơi lưu giữ giá trị văn hoá tinh thần cho mọi thế hệ. Từ văn học hiểu thêm về văn hoá. Đứng ở góc độ văn hoá nhìn sang văn học, văn hoá đựơc nhìn nhận một cách tinh tế hơn, còn văn học có một nền tảng vững chắc để tồn tại và phát triển, văn học được hiểu thấu đáo sâu sắc hơn.
Hơn đâu hết, thế giới tinh thần vô cùng phong phú của người Việt Nam, trong đó có thế giới tâm linh thể hiện rõ nét trong văn học, từ văn học dân gian đến văn học viết. Văn học Việt Nam thời trung đại một mặt kế thừa các giá trị tinh thần thiêng liêng trong văn học dân gian, mặt khác phản ánh tòan diện thế giới ấy của con người Việt Nam trong suốt mười thế kỉ tồn tại xã hội phong kiến. Trong văn học thời kì này, thông qua tài năng nghệ thuật và vốn văn hoá truyền thống sâu rộng của các tác giả ta phần nào hiểu được niềm tin thiêng liêng, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tập quán, cách tư duy và những quan niệm phổ biến của nhân dân – những điểm cốt lõi tạo nên giá trị văn hoá tinh thần đặc sắc của văn hoá dân tộc – văn hoá tâm linh.
Nằm trong quá trình phát triển liên tục nhưng khác với các thời kì văn học khác, văn học trung đại Việt Nam mang những đặc trưng và qui luật riêng. Đó là một thời kì văn học thuộc thời đại văn hoá riêng- văn hoá trung đại với mô hình thế giới, với hệ thống giá trị, với cách cảm nhận, tư duy khác. Văn xuôi trung đại không nằm ngoài qui luật ấy. Thật cần thiết phải tiếp cận văn xuôi trung đại xuất phát từ ý thức phân biệt loại hình này. Điều đó có ý nghĩa thiết thực cho việc tìm hiểu, đánh giá, giải thích một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, khẳng định giá trị riêng của các tác phẩm, góp phần giữ gìn bản sắc thẩm mỹ, nghệ thuật của một thời đại văn học. Đó là lí do chúng tui chọn đề tài luân văn: “Văn hoá tâm linh trong văn xuôi trung đại”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thuộc vào một giai đoạn phát triển đặc biệt của lịch sử dân tộc, đối với con người thời trung đại, bên cạnh đời sống hiện thực, thế giới hiện thực với nhiều mối quan hệ, họ còn có một đời sống tâm linh phong phú, một thế giới tâm linh với các thế lực huyền bí, những điều kì lạ siêu nhiên do chính con người tưởng tượng ra, mà họ tin rằng nó đang tồn tại, hiện
hữu chi phối cuộc sống. Trong nhận thức, cách cảm nhận thế giới của họ, hai thế giới ấy có mối liên thông “thiên nhân tương dữ” hay “thiên nhân tương cảm”. Trên cơ sở đó luận văn đi sâu tìm hiểu thế giới tâm linh- thế giới thứ hai trong “mô hình hai thế giới” trong văn học trung đại qua các tác phẩm văn xuôi được khảo sát. Điều đó giúp ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn con người thời trung đại – địa hạt hợp pháp của văn chương muôn đời.
Theo hướng nghiên cứu trên, luận văn cố gắng đi hệ thống hoá những biểu hiện của thế giới tâm linh để có cái nhìn hệ thống, toàn diện về những yếu tố ấy trong cách cảm nhận về thế giới và con người ở một thời kì lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của nền văn xuôi trung đại gắn liền với nền văn hoá dân gian lâu đời, bám rễ trong truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời như là sự phản chiếu tư duy nghệ thuật của nền văn học sản sinh ra nó. Do đó, luận văn đi vào phân tích và bước đầu có những kiến giải phù hợp về nhiều yếu tố tâm linh thường bị đánh giá là “thần bí”, “duy tâm” hay “mê tín dị đoan”. Đành rằng sự hạn chế trong nhận thức thế giới đã sản sinh ra tín ngưỡng, song cần có cái nhìn lịch sử về các hiện tượng văn học ấy trong tương quan với thời đại văn hoá nó ra đời.
Với đề tài này, chúng tui hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào khoa học nghiên cứu văn học Việt Nam, mảng văn học trung đại, lĩnh vực văn xuôi.
3. Lịch sử vấn đề
Trong nhiều năm gần đây, các vấn đề văn hoá, văn hoá tâm linh, mối quan hệ giữa văn hoá và văn học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hoá, văn học nước nhà. Văn hoá là cội nguồn của văn học và “văn học nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị văn hoá cao quí ấy” (Phạm Văn Đồng). Giá trị văn hóa, tính văn hoá luôn là một thước đo giá trị của tác phẩm văn học.
Xung quanh đề tài luận văn “Văn hoá tâm linh trong văn xuôi trung đại”, trong phạm vi tư liệu sưu tầm được, chúng tui điểm qua một số công trình, bài báo khoa học sau:
3.1. Nói riêng về văn hoá tâm linh, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, các tác giả đều có đề cập các vấn đề liên quan đến văn hoá tâm linh. Tuy nhiên sự đề cập mới chỉ dừng lại ở nêu hiện tượng, nhìn nhận khái quát.
Đầu tiên phải kể đến công trình “Văn hoá tâm linh” của tác giả Nguyễn Đăng Duy [17]. Công trình giới hạn những vấn đề về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín ngưỡng thần thánh trời đất, thờ mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo Phật, Đạo, Thiên chúa giáo. Tác giả điểm qua tâm linh trong mọi mặt đời sống: cá nhân, gia

đình, tín ngưỡng tôn giáo, mê tín dị đoan...Vấn đề tâm linh trong văn học nghệ thuật có được nhắc đến với nét nghĩa là chiều sâu tâm hồn nhưng chỉ với cái nhìn sơ giản chung cho mọi loại hình nghệ thuật: “Tâm linh trong sáng tác văn học nghệ thuật là những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả thể hiện được ra trong tác phẩm, làm rung động những trái tim, ngấn lệ những tâm hồn”[17;tr38].
Gần với công trình trên là chuyên luận “Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ” [42]. Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu tập trung bàn về văn hoá tâm linh của người Việt ở Nam Bộ qua tín ngưỡng thờ Mẫu và các lễ hội cổ truyền từ ảnh hưởng văn hoá Chăm.
3.2. Về mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, từ văn học hiểu thêm về văn hoá, một số nhà nghiên cứu cũng đã ít nhiều bàn đến. GS Lê Trí Viễn trong bài “Từ văn học Việt Nam thử nghĩ về văn hoá Việt Nam” [126] đã chỉ ra điểm cốt lõi trong mối quan hệ này: “Từ văn học nhìn vào văn hoá đều thấy thấm nhuần hai tình cảm lớn là vì nước vì dân vì con người, hai tư tưởng lớn: yêu nước và nhân văn, nhân đạo làm cốt lõi cho bản lĩnh dân tộc”[126;tr180]. Phần tâm linh trong văn hoá Việt Nam được ông nhắc đến ở phương diện thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng dân tôc, thành hoàng làng với ý nghĩa là đạo lí biết ơn kèm theo tín ngưỡng.
Tâm linh trong văn hoá Việt Nam cũng được nhà văn Sơn Nam bàn đến trong bài viết “Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hoá Việt Nam” [80]. Theo nhà văn, tâm linh tồn tại trong mọi mặt đời sống từ xưa tới nay, từ trong truyền thuyết, các bài văn tế, các tác phẩm văn học, trong tục thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những ca khúc về Tổ Quốc và cả những hành động, việc làm, nghĩa cử cao đẹp của những con người bình thường trong cuộc sống. Tâm linh ở đây chính là niềm tin của con người đọng lại trong trí nhớ và con người luôn tâm niệm, thành kính về điều mình tin, mình làm. “Trí nhớ không phải đứng dừng một chỗ, lâu ngày phát triển thêm rồi tồn đọng trở thành tâm linh” [80; tr130].
3.3. Đáng chú ý là hướng nghiên cứu văn học trung đại dưới góc nhìn văn hoá. Trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá” [112], nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã đề xuất phương pháp nghiên cứu văn học trung đại gắn liền với “mô hình hai thế giới” - một đặc trưng của văn hoá trung đại. Trong quan niệm của người thời cổ trung đại luôn luôn tồn tại hai thế giới, “một thế giới hiện thực với những quan hệ xã hội và thiên nhiên có thể nhận thức được bằng kinh nghiệm” và “một thế giới tâm linh do chính con người tưởng tượng ra theo một nguyên lí nào đó”. Theo đó, một đặc điểm cơ bản của văn hoá phương Đông là xem xét con người và thế giới trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời, xem Thiên đạo (đạo trời) và Nhân đạo (đạo người) như một thể thống nhất. Góc nhìn văn hoá

này được tác giả nghiên cứu qua hai trường hợp Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) với những lí giải, phân tích sáng rõ, lôgic. Với Truyện Kiều gần như ông đã “hoá giải” được chỗ mà lâu nay người ta đánh giá là hạn chế tư tưởng của Nguyễn Du như duy tâm, thần bí, nặng tư tưởng Thiên mệnh, nghiệp báo luân hồi...
3.4. Tâm linh trong văn học trung đại cũng được tác giả Thanh Tâm Langlet quan tâm qua bài “Tâm linh và thơ ca Việt Nam giai đoạn cổ trung đại” [58]. Ở đây tác giả chủ yếu dõi theo yếu tố tâm linh trong đời sống tôn giáo ở dòng thơ thiền Lí-Trần qua sáng tác của các Thiền sư thuộc các thiền phái Nam Phương, Thảo Đường, Trúc Lâm. Bên cạnh đó là tâm linh trong thơ của một số nhà thơ ở khía cạnh bộc lộ đời sống nội tâm (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan...)
Dành nhiều tâm huyết cho hướng tiếp cận thơ trung đại từ nền văn hoá truyền thống, PGS.TS Lê Thu Yến đưa ra cái nhìn bao quát, hệ thống những yếu tố tâm linh trong thơ Nguyễn Du với bài “ Thế giới tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du - một biểu hiện của văn hoá Việt” [129]. Bằng những con số thống kê cụ thể, chính xác những biểu hiện truyền thống văn hoá tinh thần dân tộc, tác giả đã khẳng định một giá trị văn hoá truyền thống trong sáng tác của nhà thơ lớn Nguyễn Du - thế giới tâm linh: “Thế giới này biểu hiện rõ rệt trong sáng tác Nguyễn Du làm cho người đọc không thể không nhận ra. Một Văn Chiêu Hồn thấm đẫm màu sắc của thế giới bên kia, một Truyện Kiều bàng bạc không gian của cõi âm và nhất là thơ chữ Hán nhan nhản bày ra những đình, đền, miếu, mộ...” [129; tr29]. Đây chính là một gợi ý trực tiếp cho chúng tui chọn đề tài luận văn này.
Riêng ở bộ phận văn xuôi trung đại, PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã có cái nhìn khái quát, hệ thống về tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự nói chung và các thể loại truyện ngắn, kí, tiểu thuyết chương hồi qua bài “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại- những bước đi lịch sử” [77] cùng với các bài giới thiệu trong các cuốn tuyển soạn [74],[75],[76]. Sau khi khái quát đặc điểm, thành tựu văn xuôi trung đại qua ba giai đoạn, tác giả đưa ra nhận xét khái quát: “Cùng với các loại hình văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà thời đại giao phó: phản ánh tâm linh của người Việt Nam thời trung đại” [77; tr38].
Như vậy, cho đến nay, nghiên cứu văn hoá tâm linh, tâm linh trong văn học, nhất là thơ ca trung đại đã được một số nhà nghiên cứu bàn đến ở những phạm vi mức độ khác nhau. Nhìn chung các nghiên cứu đều khẳng định có tồn tại một thế giới tâm linh trong đời sống con người Việt Nam từ xưa tới nay trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong văn học

trung đại. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn xuôi trung đại hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, qui mô nào. Từ những gợi ý quí báu của người đi trước, chúng tui mạnh dạn đi vào tìm hiểu, tiếp cận văn xuôi trung đại Việt Nam ở góc độ văn hoá tâm linh- yếu tố cơ bản tạo nên giá trị đặc sắc cho bộ phận văn học này.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Ở đề tài này, do điều kiện tư liệu, chúng tui chưa thể khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi trung đại mà chỉ giới hạn ở những tác phẩm quen thuộc có xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh, bao gồm:
1. Lĩnh Nam chích quái 2. Việt điện u linh
3. Nam ông mộng lục
4. Thánh Tông di thảo
5. Truyền kỳ mạn lục
6. Việt điện u linh tục bổ 7. Công dư tiệp ký
8. Sơn cư tạp thuật
9. Vũ trung tuỳ bút
10. Thượng kinh kí sự
11. Tang thương ngẫu lục
12. Lan Trì kiến văn lục
13. Hát đông thư dị
14. Truyền kỳ tân phả
15. Thính văn dị lục
16. Nam thiên trân dị tập
17. Thoái thực kí văn
18. Vân nang tiểu sử
19. Tân đính Việt điện u linh tập 20. Việt Nam kì phùng sự lục
21. Nam triều công nghiệp diễn chí 22. Hoàng Lê nhất thống chí
(Vũ Quỳnh – Kiều Phú) (Lý Tế Xuyên )
(Hồ Nguyên Trừng) (Lê Thánh Tông) (Nguyễn Dữ)
(Nguyễn Văn Chất)
(Vũ Phương Đề)
(Đan Sơn)
(Phạm Đình Hổ)
(Lê Hữu Trác)
(PhạmĐình Hổ-Nguyễn Án) (Vũ Trinh)
(Nguyễn Thượng Hiền) (Đoàn Thị Điểm) (Khuyết danh)
(Khuyết danh)
(Trương Quốc Dụng) (Phạm Đình Dục)
(Gia Cát)
(Khuyết danh) (Nguyễn Khoa Chiêm) (Ngô gia văn phái)
Bên cạnh đó, để cho luận văn thêm phong phú và phục vụ việc phân tích, so sánh, chúng tui mở rộng liên hệ đến một số tác phẩm khác: Thiên đô chiếu (Lý Công Uẩn), Đại

Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Lam Sơn thực lục và Dư điạ chí (Nguyễn Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Tục công dư tiệp kí (Trần Trợ), Kiến văn tiểu lục (Lê Quí Đôn), Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục và một vài tác phẩm khuyết danh khác.
4.2. Vấn đề văn bản và tác giả của nhiều tác phẩm văn xuôi trung đại khá phức tạp và hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy chúng tui xin không bàn đến. Chúng tui khảo sát các tác phẩm dựa theo các văn bản hiện hành của các tác giả theo quan niệm phổ biến.
4.3. Trên cơ sở thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong các tác phẩm, lấy điểm tựa là văn hoá truyền thống dân tộc (phong tục tập quán, tín ngưỡng...), bước đầu chúng tui đi giải thích một số hiện tượng tâm linh nổi bật, qua đó thấy được ý nghĩa của chúng đối với tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chúng tui không loại trừ phương pháp luận nghiên cứu văn học nào, song với đối tượng nghiên cứu của mình, chúng tui sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp lịch sử cụ thể
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy phương pháp hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội, môi trường văn hoá tư tưởng chung của thời đại, mối tương tác của chúng với các tác giả, sự ra đời của các tác phẩm để lí giải các yếu tố văn hoá trong văn học một thời đại.
5.2. Phương pháp hệ thống
Chúng tui coi văn xuôi trung đại là một cấu trúc, một hệ thống nhỏ trong hệ thống nền văn học trung đại bao gồm nhiều đơn vị tác phẩm và từng tác phẩm cụ thể để có cái nhìn bao quát, đồng thời xem xét chúng trong tương quan với văn học dân gian và văn học cận hiện đại. Phương pháp giúp ta có cái nhìn hệ thống trong quá trình nghiên cứu. Từ đó sắp xếp các yếu tố, phân tích, lí giải mối liên hệ giữa chúng để thấy tính chỉnh thể của một câú trúc văn hoá trong văn học.
5.3. Phương pháp phân loại thống kê
Phương pháp giúp ta tổng hợp thống kê, phân loại tần số xuất hiện của các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm và đơn vị tác phẩm để thấy mức độ ảnh hưởng của nền văn hoá truyền thống đối với sáng tác của các tác giả và cả thời đại văn học, cũng như hiệu quả của chúng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và nghệ thuật.
5.4. Phương pháp so sánh

Vấn đề nghiên cứu văn học trung đại nói chung hiện còn nhiều cách hiểu, lí giải khác nhau. Phương pháp so sánh giúp người đọc thấy được điểm giống và khác nhau giữa các yếu tố tâm linh trong từng đơn vị tác phẩm của các tác giả thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau. Từ đó khẳng định giá trị đích thực của yếu tố văn hoá này trong văn xuôi trung đại nói riêng và văn học trung đại nói chung. Qua đó thấy được đóng góp của các tác giả vào tiến trình phát triển nền văn xuôi trung đại.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc đối với một bộ phận văn xuôi trung đại, từ đó góp một cách lí giải tương thích một số vấn đề trong văn học thời kì này. Đồng thời khẳng định và làm sáng tỏ giá trị đặc sắc của nó do yếu tố văn hoá tâm linh mang lại.
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Khái quát
1.1. Khái niệm
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hoá Việt Nam 1.3. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn học trung đại
Chương 2: Những biểu hiện văn hoá tâm linh trong văn xuôi trung đại 2.1. Những biểu hiện
2.2. Nhận xét
Chương 3: Hiệu quả thẩm mĩ của yếu tố tâm linh trong văn xuôi trung đại
3.1. Phản ánh hiện thực và thể hiện tư tưởng 3.2. Hiệu quả nghệ thuật
3.3. Yếu tố tâm linh trong văn xuôi hiện đại

NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT
1.1 Khái niệm
1.1.1. Văn hoá tâm linh 1.1.1.1. Văn hoá
Văn hoá (dịch từ Culture) là một vấn đề rất rộng, khó có định nghĩa nào bao quát đầy đủ nội hàm của nó. Văn hoá bao hàm hết thảy các sinh hoạt của loài người, từ sinh hoạt vật chất đến sinh hoạt tinh thần, sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt động của con người và sản phẩm - kết quả của những hoạt động ấy do con người có ý thức tác động vào tự nhiên và xã hội mà có đều thuộc về văn hoá. Quá trình phát triển của loài người gắn liền với các hoạt động cải biến hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá lại tái tạo bản thân con người.
Nhìn một cách khái quát nhất, “văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [91;tr1100]; “văn hoá gồm tất cả những sáng tạo kiến thiết của loài người ở trong xã hội, tất cả những cái gì không là không phải tự nhiên, là phi tự nhiên” [2];
Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hoá, thuộc về hệ ý thức, lĩnh vực văn hoá tinh thần. Với đối tượng nghiên cứu là một phương diện của văn hoá tinh thần – văn hoá tâm linh trong văn học, chúng tui lưu ý đến một số định nghĩa sau:
Theo Bách Khoa Toàn Thư Pháp, “Văn hoá theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ,... những hiểu biết kỹ thuật cũng như toàn bộ việc tổ chức môi trường của con người, những công cụ, nhà ở,... và nói chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó”.
Nhà dân tộc học người Anh, E.B.Tylor định nghĩa: “Văn hoá là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” [121].
Nhân dịp phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hoá (1988-1997), tổ chức văn hoá thế giới UNESCO công bố định nghĩa mới về văn hoá: “Văn hoá là tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần

tuý bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật mà bao gồm cả cách sống, những quyền con người cơ bản, truyền thống tín ngưỡng”.
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu văn hoá theo hai nghĩa rộng-hẹp. Nghĩa rộng, văn hoá bao gồm các giá trị vật chất (văn hoá vật chất) và giá trị tinh thần (văn hoá tinh thần) do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử. Nghĩa hẹp, văn hoá chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người, tức những giá trị tinh thần nhằm thoả mãn nhu yếu tinh thần trước hết của con người.
Với đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hoá tâm linh, chúng tui hiểu và vận dụng khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp là những giá trị văn hoá trong lĩnh vực tinh thần-văn hoá tinh thần. Đó là “những di sản văn hoá đem lại nguồn cảm hứng thẩm mĩ cho con người bằng những hoạt động của các loại hình nghệ thuật. Cụ thể là văn, thơ, hát... nghề mĩ nghệ thủ công, trò chơi nghệ thuật...Cùng với các loại hình trên là phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng, tết, lễ, luật tục và những hương ước, định ước và tri thức dân gian” [9]. Ở đây, có thể xem các thành tố phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng thuộc về văn hoá tâm linh bởi chúng đều gắn với yếu tố tâm linh - vấn đề cơ bản trong đời sống văn hoá tinh thần dân tộc.
1.1.1.2. Tâm linh
Trong xu thế phát triển không ngừng của xã hội ngày nay, khi mà những nhu yếu vật chất ngày càng được đáp ứng đầy đủ, thoả mãn, người ta lại có xu hướng tìm lại sự cân bằng trong đời sống với những nhu cầu về tinh thần. Vì vậy mà hai chữ “tâm linh” thường được nhắc nhiều. Tâm linh cũng được quan tâm rất nhiều trong văn hoá, văn học.
Qua tìm hiểu một số tài liệu, chúng tui nhận thấy có khá nhiều cách hiểu khác nhau về tâm linh, do vậy mà có nhiều khái niệm tâm linh không giống nhau.
Hướng thứ nhất, tâm linh được hiểu là khía cạnh tâm hồn, tinh thần, tình cảm của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt 2000, tâm linh có một nét nghĩa là “tâm hồn, tinh thần” [91;tr897]. Trong khi đó, “tâm hồn” được định nghĩa là “ý nghĩ và tình cảm làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người”[91;tr 896] và “tinh thần” là “tổng thể nói chung những ý nghĩ, tình cảm, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người” [91;tr994]. Theo đó, thế giới tâm linh chính là thế giới tâm hồn, thế giới tinh thần và nói đến tâm linh tức là nói đến đời sống nội tâm của con người trong tương quan với đời sống vật chất bên ngoài. Theo nghĩa này, tâm linh còn là một phần của tâm lý bởi tâm lý là “toàn bộ nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức,

tình cảm, ý chí,... biểu hiện trong hoạt động cử chỉ của mỗi người” [91;tr897]. Ở đây tâm linh là một biểu hiện của đời sống tâm lí con người ở khía cạnh tình cảm.
Hướng thứ hai, tâm linh được hiểu như một khả năng phán đoán, biết trước sự việc. Trong Pháp Việt từ điển của Lê Khả Kế, tâm linh là: “linh tính”. Hay cũng theo Từ Điển Tiếng Việt 2000, một nét nghĩa khác của tâm linh là “khả năng biết trước một số biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [91;tr897]. Ở đây, tâm linh được dùng như một động từ với nội hàm “tiên tri” (biết trước và nói ra trước các sự kiện trước khi chúng xảy ra).
Các khái niệm tâm linh trên tuy khác nhau nhưng vẫn có điểm chung là hiểu tâm linh gắn với con người, ở trong con người. Nhưng không thật là đủ nếu không hiểu tâm linh từ chính nghĩa tự thân của nó cũng như từ thực tiễn đời sống tinh thần.
Tâm linh gồm hai chữ tâm và linh. Tâm (lòng, tấm lòng). Chữ tâm ở đây được hiểu trong từ “tâm niệm” (thường xuyên nghĩ tới, tự nhắc mình ghi nhớ làm theo, tức tin theo điều đó). Như thế tâm trong tâm linh là niềm tin. Còn linh là thiêng trong linh thiêng, thiêng liêng (ví dụ: “linh khí” tức khí thiêng-khí thiêng sông núi). Vậy tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng.
Tâm linh là một phần không thể thiếu trong đời sống bởi “trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua những gì cụ thể nhất định, thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất trừu tượng, rất mông lung, nhưng lại không thể thiếu được ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó [73;tr36].
Tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, cao cả mà con người luôn hướng tới, luôn tin tưởng nên nó có giá trị cố kết cộng đồng, ràng buộc con người bên cạnh các mối quan hệ hữu hình khác. Nên tâm linh có mặt trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã hội và đời sống tôn giáo. “Không chỉ có thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật mới thiêng liêng, mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng liêng không kém” [28; tr8]. Hiểu như vậy, khái niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy được xem là khá toàn diện: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín

ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [17; tr11].
Ở khái niệm tâm linh ta cần lưu ý đến ba điểm cốt lõi:
Thứ nhất: Tâm linh là vấn đề thuộc ý thức, gắn liền với ý thức con người, bởi niềm tin có được là do sự nhận biết của ý thức. Không có ý thức con người thì không thể có tâm linh. Trong ý thức con người, tâm linh là một dạng của ý thức – ý thức hướng về cái thiêng liêng. Ý thức tâm linh thường được biểu hiện dưới dạng quan niệm và những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng.
Thứ hai: Hạt nhân cơ bản của tâm linh là niềm tin, không có niềm tin chắc chắn là không có tâm linh. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, gọi là niềm tin tâm linh hay niềm tin tâm thức. Do vậy niềm tin tâm linh thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội, tinh thần, tư tưởng.
Thứ ba: Tâm linh tồn tại trên nhiều phạm vi: đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng làng xã, Tổ Quốc, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Từ những điểm trên, ta lại cần bàn thêm một số khái niệm liên quan: tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan và có sự phân biệt tâm linh trong từng lĩnh vực.
1.1.1.2.1. Tâm linh và tôn giáo
Là một dạng đặc biệt của văn hoá tinh thần, tôn giáo có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Theo những định nghĩa phổ thông: tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm linh trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, có quyền lực siêu phàm có thể tác động đến đời sống của con người khi còn sống cũng như khi đã chết, trong đó linh hồn của những người đã chết vẫn tồn tại trong một cuộc sống khác. Từ đó con người đi đến chỗ tôn vinh thờ phụng các thế lực siêu nhiên, những linh hồn của những người đã chết với hi vọng được sống an bình nơi trần thế và hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên kia sau khi đã chết.
Đặc trưng nổi bật của tôn giáo là đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên. Niềm tin ấy có tác dụng như một loại thuốc an thần tạo sự cân bằng về tinh thần cho con người trong mọi hoàn cảnh như câu nói của Mác “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Niềm tin tôn giáo (tín ngưỡng tôn giáo) là biểu hiện của đời sống tâm linh nhưng tín ngưỡng tôn giáo không đồng nhất với tâm linh. Tâm linh chỉ là khả năng dẫn đến tôn giáo. Trong tín ngưỡng tôn giáo, ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan và sự cuồng tín tôn giáo. Tâm linh

là phần cơ bản nhất, là biểu hiện của tôn giáo trong mặt tích cực, giá trị nhất (mặt đạo đức và văn hoá, tính hướng thiện, tính nhân văn...). Mỗi tôn giáo đều hướng về những hình tượng thiêng liêng (Trời trong Nho giáo, Phật trong Phật giáo, Chúa trong Gia tô giáo...) và đặt đức tin vào những triết lý, tín điều riêng. Các tôn giáo đều có chung tâm linh hướng về một thế giới khác, ở đó linh hồn được hạnh phúc trọn vẹn sau khi từ giã cuộc đời (thiên đàng, cõi niết bàn, kiếp khác...). Bên cạnh mặt tích cực, văn hoá, tôn giáo (và cả tín ngưỡng) còn biểu hiện mặt tiêu cực, phi văn hoá. Đó là khi con người vì lý do khác nhau (nhận thức, mục tiêu, lợi ích...) mà sử dụng tôn giáo, tín ngưỡng sai lầm dẫn đến mê tín dị đoan.
1.1.1.2.2. Tâm linh và mê tín dị đoan
Trước hết cần hiểu cặn kẽ hiện tượng bằng cách tách bóc hai vấn đề mê tín và dị đoan.
Mê tín (tin vào những điều không có thật); dị đoan (lắm mối rắc rối, quàng xiên, mù quáng...). Thực chất các tôn giáo, tín ngưỡng đều là mê tín nhưng không có dị đoan. Nhưng, thực tế mê tín thường đi liền với dị đoan để chỉ niềm tin đã bị biến dạng, bóp méo, dị thường gây hại cho con người. Mê tín dị đoan “là những ý thức, hành vi mê muội, tin và dựa vào những biểu tượng trái lẽ tự nhiên, có hành vi lễ bái ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí trái với lẽ phải và hành vi thông thường của mọi người chung quanh; làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi người” (Từ điển Tôn Giáo - dẫn theo Mai Thanh Hải) [30;tr107].
Niềm tin trong mê tín dị đoan là niềm tin mù quáng “nhắm mắt tin mò” vào cái thần bí dẫn đến sự thương mại hoá niềm tin, “buôn thần bán thánh”, lợi dụng thần Phật để kiếm lợi bất chính. Cho nên, mê tín dị đoan không thuộc dạng thức sinh hoạt tâm linh. Nói cách khác, trong mê tín dị đoan không tồn tại tâm linh theo đúng nghĩa.
1.1.1.2.3. Tâm linh và tín ngưỡng
Thông thường, tín ngưỡng (tin tưởng, ngưỡng mộ) thường được dùng đi kèm với tôn giáo với ý chỉ niềm tin tôn giáo. Song thực chất tín ngưỡng cũng là một dạng thức văn hoá, một lĩnh vực của niềm tin nên nó có vị trí riêng với nội hàm khái niệm riêng.
Một số quan niệm cho rằng, tín ngưỡng là lòng tin và ngưỡng mộ đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa. Nhưng như nói trên, lòng tin và sự ngưỡng mộ của con người không chỉ giới hạn ở tôn giáo mà còn ở cả những lực lượng siêu nhiên, thánh thần trong thế giới quan của nhân dân. Những lực lượng ấy có thể gây hoạ tác phúc, chi phối, can thiệp vào cuộc sống của con người. Nên có thể hiểu tín ngưỡng là sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái

những thần thánh, vật thiêng hay linh hồn người chết do con người tưởng tượng ra hay do con người suy tôn gán cho những phẩm chất siêu phàm (Theo Hỏi đáp về văn hoá Việt Nam) [100].
Là một thành tố văn hoá tổ chức cộng đồng, tín ngưỡng được hình thành tự phát từ thực tế cuộc sống, được cộng đồng tin theo, tôn thờ... gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng (như tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người...)
Cùng phát tín hiệu thiêng liêng nhưng tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau cơ bản. Nếu như tín ngưỡng là một sự ý thức về thần linh với niềm tin, lòng ngưỡng mộ dưới các hình thức lễ bái cầu cúng theo quan niệm dân gian; ý nghĩa của tín ngưỡng là biết ơn và cầu mong đối tượng phù hộ cho mình bình yên, khoẻ mạnh, ăn nên làm ra; thì ở tôn giáo là niềm tin vào những triết thuyết, giáo lý, kinh sách với một hệ thống lễ nghi (đọc kinh, quỳ bái...), có tổ chức nhân sự điều hành nhằm giáo dục tín đồ theo lời dạy của đấng tối cao. Tôn giáo chủ yếu hướng đến giải thoát cho cái chết, còn tín ngưỡng luôn hướng vào sự thịnh vượng của cuộc sống.
Sự phân biệt trên cho phép ta một lần nữa nhận thức rõ vị trí độc lập của tín ngưỡng bên cạnh tôn giáo như là những thành tố cơ bản của đời sống tâm linh. Đồng thời, có thể xem đây là những căn cứ để phân biệt các hiện tượng tâm linh là tín ngưỡng hay tôn giáo. Có thể gọi niềm tin của các tín đồ tôn giáo là tín ngưỡng tôn giáo để phân biệt với niềm tin của các tầng lớp nhân dân không theo tôn giáo là tín ngưỡng dân gian (hay tín ngưỡng truyền thống)
Với nhận thức trên, luận văn chúng tui chỉ bàn đến tâm linh trong tín ngưỡng dân gian truyền thống thông qua văn học, thuộc phạm vi đời sống cá nhân.
1.1.1.3. Văn hoá tâm linh
Từ cách hiểu và giới hạn khái niệm văn hoá và tâm linh trên, chúng tui hiểu văn hoá tâm linh là những giá trị văn hoá tinh thần thiêng liêng. Đó là “văn hoá biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [17; tr26]
Thuộc lĩnh vực văn hoá tinh thần, nhưng văn hoá tâm linh với những đặc thù riêng không chỉ gồm những giá trị văn hoá vô hình (những nghi lễ, ý niệm, tập tục...) mà cả những giá trị văn hoá hữu hình phát tín hiệu thiêng liêng (đình, đền, miếu, chùa, nhà thờ, tượng...)

Văn hoá tâm linh có nội hàm rộng (biểu hiện trong cả cuộc sống đời thường và trong tín nguỡng tôn giáo), cho nên có thể thấy trong đời sống con người luôn tồn tại đời sống tâm linh bên cạnh đời sống thường ngày với những nhu cầu vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại...). Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó có niềm tin vào “cái thiêng”. Ở đó con người chủ yếu sống với phần tâm linh trong mình. Với những người không theo tôn giáo, đời sống tâm linh chỉ xuất hiện khi “hoàn cảnh thiêng”, “thời gian thiêng” xuất hiện. Đó là không gian của những “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”, của đủ thứ những thần thánh, Phật tiên...Đó là thời gian giỗ, Tết, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng, những thời điểm giúp con người giao hoà với trời đất, thiên nhiên và các thế lực thánh thần. Sống trong thứ không gian, thời gian mang tính tâm linh, mang tính vũ trụ ấy, con người thực sự được giải toả tâm linh. Họ được thư giãn tinh thần, mong được cởi phiền muộn âu lo, cầu những điều tốp đẹp cho mình và người thân. Sống đời sống tâm linh chính là cách để con người đến gần hơn với thế giới tâm linh-thế giới của những biểu trưng “đạo trời”, của những lực lượng huyền bí với những quyền năng vô hạn chi phối cuộc sống trần thế. Nói chung, “thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở của cái thiêng liêng ấy” (Vũ Tự Lập).
Với luận văn của mình, chúng tui chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi văn hoá tâm linh trong tín ngưỡng người Việt- tín ngưỡng biểu hiện niềm tin vào “cái thiêng” của các tầng lớp nhân dân không theo tôn giáo.
Trong ý niệm của nhân dân ta từ xa xưa, thế giới luôn có các lực lượng siên nhiên mặc nhiên thống trị cuộc sống nhân gian và luôn tin như thế, “niềm tin đó tạo nên những hoạt động tương ứng biểu hiện qua việc thờ cúng các nghi lễ, tập tục (...) làm nên tín ngưỡng dân gian” [51;tr1030]. Tín ngưỡng dân gian người Việt vô cùng đa dạng, bao gồm tín ngưỡng thờ thánh thần, trời đất ( thành hoàng làng, thần hộ mệnh cá nhân, thánh tổ nghề, thờ các vị phúc thần, các anh hùng lịch sử văn hoá...); tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ mẫu...; niềm tin tướng số phép thuật...Các tín ngưỡng song hành tồn tại trong đời sống nhân dân và trở thành những sinh hoạt văn hoá tạo nên bản sắc văn hoá truyền thống Việt Nam.
Văn học chỉ là một biểu hiện của văn hoá, là một mảng màu của bức tranh văn hoá thời đại nó ra đời. Vì vậy khi tìm hiểu văn hoá tâm linh người Việt trong văn xuôi trung đại, chúng tui thu hẹp bộ phận văn hóa này trong tín ngưỡng dân gian ở những biểu hiện sau:

việc thờ cúng trong các nghi lễ (lễ cầu đảo, lễ phong sắc thần, lập miếu, tạc tượng thờ) và một số tập tục (tục thờ thần, khấn nguyện, cúng giỗ tổ tiên..). Bên cạnh đó là niềm tin thiêng liêng đối với một số hiện tượng thiêng trong cuộc sống (giấc mộng, điềm báo, sự linh ứng, niềm tin vào phép thuật, hoá kiếp...).
1.1.2. Văn xuôi trung đại
1.1.2.1. Thời kỳ trung đại trong văn học Việt Nam 1.1.2.1.1. Thời kì trung đại
Tên gọi “văn học Việt Nam thời trung đại” thực ra là một qui ước mang tính khoa học mà các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng “mượn” từ khái niệm “thời trung đại” trong lịch sử châu Âu. Thời trung đại được xem là thời đại văn hoá lớn trong lịch sử nhân loại. Đó cũng là thời đại hình thành các giá trị văn hoá truyền thống có ảnh hưởng đến ngày nay. Riêng đối với Việt Nam, thời trung đại là thời hình thành toàn bộ di sản văn hoá thành văn của dân tộc.
Thời trung đại chuyển sang thời hiện đại thông qua thời kì quá độ là thời cận đại. Về mặt lịch sử, ở Việt Nam thời cận đại được đánh dấu bằng sự kiện Pháp chính thức xâm lược (31.8.1858). Còn xét về mặt văn học, thời cận đại thực sự mờ nhạt, không thật rõ nét. Bởi vì, không giống như ở phương Tây, thời cận đại ở Việt Nam không phải là một giai đoạn độc lập đích thực mà là giai đoạn giao thời chuyển mạnh sang thời hiện đại. Xét từ bình diện văn hoá, thời hiện đại được tính từ cái mốc tiếp nhận và sáng tạo các hình thái văn hoá mới. Đầu thế kỉ XX là thời điểm đánh dấu sự tiếp xúc, giao lưu toàn diện về văn hoá, văn học của Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới. Đó là nền văn học mới với đề tài, cách truyền bá, và những quan niệm văn học, lí tưởng thẩm mĩ, phương pháp sáng tác, thể loại văn học...đặc biệt là sự xuất hiện của báo chí, in ấn, xuất bản. Sự đổi thay cơ bản này đem đến cho văn học Việt Nam một diện mạo mới, một nhịp độ phát triển khẩn trương mau lẹ, “một năm ở nước ta kể như ba mươi năm ở nước người” (Vũ Ngọc Phan). Nền văn học bắt đầu bước vào quá trình hiện đại hoá, vận động trong quĩ đạo chung của nền văn học thế giới. Do vậy có thể xem văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX thuộc phạm trù trung đại và từ đầu thế kỉ XX đến nay thuộc phạm trù hiện đại.
1.1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của văn học trung đại Việt Nam
Văn học Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc. Đó là quá trình xây dựng văn học viết bằng cách dựa vào truyền thống và

những thành tựu của văn hoá, văn học dân gian, trên cơ sở tiếp thu một cách chủ động ảnh hưởng của văn hoá văn học nước ngoài, đặc biệt văn học Trung Quốc. Đó cũng là quá trình nền văn học phát triển gắn liền với vận mệnh đất nước và số phận con người, thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ, đồng thời mang những đặc điểm loại hình thi pháp văn học trung đại trong sự vận động theo hướng dân tộc hóa và dân chủ hoá.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ngay từ khi ra đời, văn học trung đại Việt Nam đã gắn với vận mệnh đất nước và con người. Chủ đề nổi bật của văn học thời kì này là chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng. Chủ đề ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học, từ thơ ca của các nhà sư đời Lí, các vị tướng đời Trần đến các nhà thơ nhà văn lớn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, tư tưởng yêu nước và nhân đạo có những biểu hiện khác nhau.
Đã trở thành qui luật, nền văn học trung đại của dân tộc nào cũng được xây dựng trên cơ sở nền văn hoá văn học dân gian của dân tộc đó. Văn học dân gian Việt Nam là nền tảng hình thành nền văn học viết trên nhiều phương diện. Tiếp thu nguồn mạch văn học dân gian, văn học viết có cơ sở vững chắc để phát triển. Từ những tác phẩm văn xuôi thành văn đầu tiên: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái... ra đời trên cơ sở sưu tầm ghi chép các truyền thuyết dân gian, “từ bia miệng người đời”, đến những tác phẩm có qui mô lớn như Đại Việt sử kí toàn thư cũng sử dụng nhiều yếu tố của văn học dân gian. Cũng không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của văn học dân gian đậm đà về văn liệu, thi liệu, bút pháp thể hiện...đối với những tác phẩm truyền kì như Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu... Khẳng định giá trị và tìm hiểu đặc điểm của văn học viết trung đại cũng đồng thời là sự đánh giá cao vai trò, vị trí của văn học dân gian- suối nguồn tươi mát giàu dưỡng chất nuôi lớn nền văn học viết.
Trong thời kì trung đại, sự giao lưu ảnh hưởng của các nền văn học lâu đời (Trung Hoa, Ấn Độ...) với các nền văn học hình thành sau (Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam...) là một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, nền văn hoá văn học dân tộc vẫn không bị đồng hoá. Sự tiếp thu ảnh hưởng văn học Trung Hoa không làm mất đi bản sắc dân tộc mà càng làm cho nền văn học thêm phong phú đậm đà bản sắc. Đặc biệt trên phương diện thể loại, sự tiếp thu đã diễn ra một cách toàn diện. “Người Việt Nam hầu như đã di thực toàn bộ thể loại văn học của văn học Trung Quốc vào Việt Nam với những qui mô và biến đổi khác nhau” (Trần Đình Sử). Thế nhưng con đường

phát triển của văn học dân tộc là vừa tiếp thu vừa Việt hoá những yếu tố Hán song song với việc sáng tạo những yếu tố hình thức mang tính dân tộc. Sự tiếp thu một cách chủ động tinh hoa văn học Trung Quốc trên tinh thần dân tộc vừa làm giàu có cho nền văn học, vừa thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ của cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn hoá dân tộc mình.
Cũng như văn học viết trung đại các nước trên thế giới, văn học Việt Nam thế kỉ X- XIX chịu sự qui định của thi pháp văn học trung đại nói chung. Nổi bật hơn cả là tính chất ước lệ của hình thức biểu hiện. Tính ước lệ trung đại được biểu hiện ra ở tính chất tập cổ, tính qui phạm, tính công thức, sáo ngữ, nghi thức, tính trang trí, gắn chặt với tính truyền thống, nệ truyền thống rất nặng. Ngoài ra văn học trung đại cũng ưu tiên cho các chức năng hành chính, giáo huấn, nghi lễ..., sự coi nhẹ biểu hiện cá tính. Tuy nhiên các đặc điểm thi pháp trên không làm hạn chế sự phong phú và phát triển của văn học. Bằng trí tuệ, tâm hồn, tài năng sáng tạo của các tác giả, văn học trung đại đã để lại nhiều áng thơ văn làm say đắm lòng người. Trên đường sáng tạo, nền văn học luôn vận động theo hướng dân tộc hoá, dân chủ hoá, thường xuyên tự đổi mới bằng cách bám sát cuộc sống của dân tộc để phản ánh. Văn học đã dần trở nên gần gũi với tâm thức người dân. Đó cũng chính là nhu cầu tự thân để văn học trung đại ngày càng làm cho các qui phạm dần bị lỏng lẻo, phá vỡ, đồng thời tạo tiền đề cho quá trình hiện đại hoá văn học đầu thế kỉ XX.
Các đặc điểm cơ bản trên giúp ta nhận rõ đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam trong qui luật chung của các nền văn học trung đại thế giới và chỉ qua những đặc trưng ấy mới có thể hiểu được văn học trung đại như là một bộ phận hữu cơ của nền văn hoá trung đại. Đi trọn mười thế kỉ, văn học trung đại kết thúc vai trò lịch sử của mình trong tiến trình văn học dân tộc: phản ánh một cách chân thực sinh động đời sống của con người Việt Nam trên các phương diện vật chất và tinh thần, đặc biệt là đời sống tâm linh sâu sắc; để lại cho nền văn học nhiều kinh nghiệm quí giá.
1.1.2.2. Thể loại văn xuôi trung đại
1.1.2.2.1. Thể loại văn học trung đại là một hiện tượng rất bề bộn, phức tạp. Việc phân loại văn học, kể cả văn xuôi là một công việc rất khó trong điều kiện văn sử bất phân. Vấn đề thể loại văn xuôi ở đây chỉ có ý nghĩa làm cơ sở lí luận cho các nội dung tiếp theo.
Văn xuôi, theo thi pháp học gồm hai thể văn xuôi tự sự và văn xuôi trữ tình. Thời trung đại chưa xuất hiện văn xuôi trữ tình. Văn xuôi tự sự thời kì này chủ yếu viết bằng chữ Hán. Bên cạnh loại tự sự bằng văn xuôi còn có tự sự bằng văn vần. Tự sự bằng văn vần

được gọi là truyện Nôm. Khái niệm văn xuôi tự sự (hay văn xuôi chữ Hán) được dùng để khu biệt với truyện Nôm.
Theo Nguyễn Đăng Na trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, [74], căn cứ vào qui mô và tính chất của các tác phẩm, có thể chia văn xuôi tự sự thành ba nhóm: truyện ngắn, ký và tiểu thuyết chương hồi. Luận văn chúng tui theo cách phân chia này để gọi tên các tác phẩm văn xuôi trung đại được khảo sát.
Tiểu thuyết chương hồi là thuật ngữ chỉ “một thể loại tác phẩm tự sự dài hơi của Trung Quốc thịnh hành vào đời Minh Thanh” [32;tr280]. Loại tác phẩm này có ảnh hưởng sâu xa đối với tiểu thuyết của các nước châu Á như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Trong đó, tiểu thuyết chương hồi viết bằng văn xuôi chữ Hán của Việt Nam là một hiện tượng độc đáo với các tác phẩm: Nam triều công nghiệp diễn chí, Tây Dương gia tô bí lục, đỉnh cao là Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc điểm tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trước hết là viết về đề tài lịch sử - lịch sử đương đại nên tính thời sự chính trị của các tác phẩm rất cao. Đây là loại tiểu thuyết gắn với kí sự lịch sử. Về hình thức, các tác phẩm hoàn toàn theo mô hình chương hồi Trung Quốc. Mỗi hồi chứa đựng một số sự kiến chính, có một câu đối ở đầu hồi tóm gọn nội dung sự kiện; cách trần thuật mở đầu bằng niên hiệu lịch sử, dẫn truyện bằng “nói về”, “ lại nói”, “chuyện chia thành hai mối”...
Về truyện và ký. Truyện ngắn trung đại thực ra là một khái niệm tương đối mà “giới nghiên cứu hiện đại dùng để chỉ một hiện tượng rất không thuần nhất về cả nội dung và nghệ thuật, bao hàm rất nhiều kiểu loại tác phẩm khác nhau ra đời trong một thời gian rất dài (khoảng mười thế kỉ)”[111], gồm: chí, lục, phả, tuỳ bút, ký, ký sự, thuyết...Mặt khác, theo nhà nghiên cứu văn học người Nga-B.L.Riptin, “thể loại trong văn học trung đại(...) được thể hiện trong cách thường xuyên nêu bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm”(dẫn theo Nguyễn Đăng Na)[74]. Nên thật khó để tách bạch đâu là truyện đâu là ký. Ngoài một số đặc điểm về cốt truyện, nhân vật, thời gian không gian, đặc biệt là tính chất hư cấu- yếu tố giúp tách truyện ra khỏi các hình thức ghi chép khác như lục, ký, chí, thì thái độ người cầm bút, sự thể hiện cái tui cá nhân của tác giả là dấu hiệu làm nên sự phân biệt giữa ký với truyện (như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác; ký khảo cứu, kí phong cảnh trong Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ). Tuy nhiên, nhiều trường hợp như Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tuỳ bút hay Công dư tiệp kí , người ta vẫn quen gọi là truyện bởi tính truyện đậm hơn tính ký. Ngoài ra, từ thế kỷ XVIII, ký đã tách khỏi văn học chức năng để trở thành những tác phẩm ký nghệ thuật đích thực. Do vậy, dù được gọi nhiều tên gọi khác nhau, các tác phẩm

truyện và ký được khảo sát đều là những tác phẩm văn học đích thực trong tư cách chúng thuộc phạm trù văn học trung đại. Chúng tui cũng thống nhất gọi các thiên ký đậm tính truyện trong các tác phẩm được khảo sát chính là truyện. Sau đây là số lượng truyện trong mỗi tác phẩm :
1. Lĩnh Nam chích quái 2. Việt điện u linh
3. Nam ông mộng lục 4. Thánh Tông di thảo 5. Truyền kì mạn lục
6. Việt điện u linh tục bổ 7. Công dư tiệp ký
8. Sơn cư tạp thuật
9. Vũ trung tuỳ bút
10. Tang thương ngẫu lục 11. Lan Trì kiến văn lục 12. Hát đông thư dị
13. Truyền kỳ tân phả
14. Thính văn dị lục
15. Nam thiên trân dị tập
16. Thoái thực kí văn
17. Vân nang tiểu sử
18. Tân đính Việt điện u linh tập 19. Việt Nam kì phùng sự lục
18/20 truyện+22/23truyện dịch thêm. 27/27 truyện
8/28 truyện
14/19 truyện
20/20 truyện
3 truyện
23/43 truyện
7 truyện /184 thiên 7 truyện /89 thiên 14 truyện / 90 thiên 23 truyện / 45 thiên 7/66 truyện
4/4 truyện
5 truyện 4/138 truyện 3 truyện 13/109 truyện 3/41 truyện
2 truyện
1.1.2.2.2. Vấn đề tên gọi thể loại của nhiều tác phẩm văn xuôi trung đại chưa dừng lại ở
khái niệm truyện (truyện văn xuôi chữ Hán) mà thực tế người ta còn gọi là tiểu thuyết (tiểu thuyết chữ Hán). Tại sao vậy ?
Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết là thuật ngữ chỉ “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian”, “là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác”[32; tr277-279]. Nhưng trong phạm trù văn học trung đại Việt Nam mà cái nôi ảnh hưởng của nó là văn học Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết lại khác.

Ở Trung Quốc, từ “tiểu thuyết” xuất hiện trong Trang Tử chỉ những lời vụn vặt. Trong quan niệm của nhà nước phong kiến, đây là loại văn học diễn xướng nơi đường sá đối lập với thứ văn chương cao nhã. Tuy nhiên, gần đây người ta nhận thấy tiểu thuyết bắt nguồn từ hình thức kể chuyện trong Sử kí của Tư Mã Thiên và Tả truyện thời Hán, manh nha là “truyện”, “ký”. Tên gọi tiểu thuyết (cũng giống như truyện, ký) được mượn tên thể loại của sử nhưng không phải là lịch sử. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn học Trung Quốc cổ trung đại, trong văn học trung đại Việt Nam, tên gọi tiểu thuyết được dùng với nội hàm để chỉ bất cứ tác phẩm tự sự nào có tính nghệ thuật được ghi theo thể loại của sử (chí, kí, lục...) và có thể kể lại được. Bài Bạt của Kiều Phú viết: “tui cho rằng, việc thông thường trình bày trên kinh, trên sử, cốt để dạy lại đời sau, việc quái gở được ghi chép thành truyện, kí cốt để mở rộng hiểu biết chuyện lạ (dĩ quảng dị văn)”. Khái niệm truyện và tiểu thuyết gần như không có sự phân biệt. Cho nên, khi giới thiệu Tang thương ngẫu lục, Trương Chính viết: “có điều, tập sách có tính chất kí sự hơn là tiểu thuyết”. Khái niệm tiểu thuyết dùng ở đây chính là truyện.
Như vậy, trong tình hình không “thuần chủng” của văn học trung đại, sự tách biệt thể loại tác phẩm trong đó có khái niệm truyện và tiểu thuyết là điều thực sự khó khăn. Đó là lí do tại sao lâu nay người ta chấp nhận những cách gọi khác nhau tên nhiều tác phẩm tự sự: truyện văn xuôi chữ Hán (Ưu Đàm) [23]; truyện ngắn, ký, tiểu thuyết chương hồi (Nguyễn Đăng Na) [74,75,76]; Tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa) [84]. Riêng trong thể loại truyền kì, Vũ Thanh gọi là truyện ngắn truyền kì [104], còn Đình Phan Cẩm Vân gọi là tiểu thuyết truyền kì [125].
1.1.2.2.3. Truyện Việt Nam thời trung đại có một tỉ lệ lớn truyện truyền kì (tiểu thuyết truyền kì) như Truyền kì mạn lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kì tân phả ...Vậy truyền kì là gì và yếu tố văn hóa tâm linh trong loại truyện này là ở đâu ?
Trước hết, truyền kì được hiểu là truyền đi một sự lạ. Truyền kì có tính chất là những truyện kì lạ được lưu truyền lại. Đồng thời truyền kì cũng là khái niệm chỉ “một thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường” [32; tr386], là thể loại “chứa đựng nhiều tình tiết li kì,quái dị”.
Truyện truyền kì có nguồn gốc trong văn học Trung Quốc. Loại này đã thúc đẩy sự ra đời của thể loại truyền kì trong văn học vùng Đông Á trong đó có Việt Nam. Truyền kì đã trở thành một thể loại truyện mang tính chất “kì văn dị sự”- một bộ phận tạo nên diện mạo nền văn xuôi trung đại Việt Nam.

Hạt nhân cơ bản của truyện truyền kì là yếu tố kì. Kì trước hết là cái lạ, cái khác biệt trái với cái bình thường (kì lạ, li kì). Kì cũng còn là cái quái đản, phi thường, siêu nhiên (kì quái, kì dị). Cái lạ, phi thường, siêu nhiên trong truyện truyền kì đã tạo nên những “kì văn” với những “kì nhân”, “kì sự”. Cái kì tạo nên sức hấp dẫn lạ lùng, góp phần làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm. Sức nặng nghệ thuật của yếu tố này được Nghê Trác trong Nhị kì duyên tiểu dẫn cô đúc “vô truyền bất kì, vô kì bất truyền” (tác phẩm không lưu truyền được là do không có gì lạ, và không có gì lạ nên tác phẩm không lưu truyền được) (dẫn theo Trần Lê Bảo )[6].
Vậy phạm vi của cái lạ trong truyền kì là đâu vì lạ cũng là phạm trù của cái quái trong truyện chí quái? Cả hai loại truyện đều có yếu tố thần kỳ quái dị, nói đến hiện tượng bất bình thường trong tự nhiên và xã hội (gió, bão, lụt bất thường, những con vật quái dị, người biến dạng hóa hình hay sự nhân hóa thần linh, động vật, đồ vật, sự thần kì hóa con người...). Tuy nhiên truyện chí quái chủ yếu nói truyện ma quỷ, truyện quái dị gây cảm giác quái đản, sợ hãi (như chuyện người nôn trong trong mồm ra đủ loại thức ngon vật lạ và người con gái đẹp -Truyện Cái lông ngỗng ở Dương Tiễn -Sách chí quái Lục Triều). Còn sự lạ trong truyền kì chủ yếu nói chuyện con người, xoay quanh các hiện tượng nhân hoá thần linh và thần kì hóa con người (như loài vật biến thành người, người ân ái kết duyên với tiên, với ma... trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục). Quan trọng hơn, kì trong truyền kì tham gia vào sự kiện cốt truyện nhằm phản ánh hiện thực xã hội. Nó không chỉ thể hiện trình độ tư duy nghệ thuật độc đáo mà còn là phương tiện, thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả cao trong phản ánh hiện thực và chuyển tải những vấn đề nhân sinh. Với những đặc trưng và vẻ đẹp nghệ thuật riêng, yếu tố kì làm cho truyện truyền kì khác với các loại truyện gần gũi với nó như truyện thần quái, chí quái. Nó khiến cho người đọc bao thế hệ được “tâm khai thần thích” (tâm thần sảng khoái).
Trong văn xuôi trung đại Việt Nam, những yếu tố kì lạ, khác thường trong tự nhiên hay xã hội luôn được kèm theo một quan niệm riêng về một thế giới khác, một niềm tin thiêng liêng và lòng tôn sùng ngưỡng mộ đối với các lực lượng trong thế giới ấy. Nói cách khác, chính thế giới quan thần bí và trí tưởng tượng phong phú, niềm tin sâu xa vào một thế giới khác thế giới hiện thực có sức mạnh chi phối đời sống đã tạo cho họ một đời sống tâm linh phong phú. Đời sống ấy luôn hiện hữu những điều kì lạ, khác thường (hiện tượng điềm báo, hóa kiếp, hồn ma, đạo sĩ làm bùa phép phù chú, nhà sư có phép thần thông..., hiện tượng con người giao tiếp với thần linh, lạc vào thế giới thần thánh thông qua giấc mộng,

cúng tế...). Dĩ nhiên những hiện tượng “kì hình dị sự” ấy luôn mang niềm tin thiêng liêng của con người, thể hiện nguyện vọng ước mơ của họ về nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Khi bàn đến yếu tố văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại, luận văn sử dụng thể loại truyền kì và cả chất liệu của nó trong các tác phẩm khác như là một bộ phận quan trọng bởi yếu tố kì ở đây luôn mang tín ngưỡng, quan niệm dân gian. Ngoài ra là yếu tố quái của truyện thần quái: hiện tượng gái hóa trai, con vật quái dị hay truyện về người phương Bắc giấu của cải, xem phong thủy, huyệt mạch...Tất nhiên những hiện tượng quái này luôn xuất phát và hàm chứa tín ngưỡng dân gian. Đó là các vấn đề công lí đạo nghĩa, luật nhân quả, dương trợ âm phù....
Vậy, cũng giống như đặc điểm của yếu tố kì trong truyện truyền kì, các yếu tố văn hóa tâm linh trong văn xuôi tự sự vừa mang nội dung phản ánh, khái quát hiện thực, thể hiện tư tưởng niềm tin của con người thời trung đại vừa có giá trị nghệ thuật tạo nên sắc màu lung linh, huyền ảo hấp dẫn cho truyện kể.
1.1.2.2.4. Yếu tố tâm linh trong văn xuôi trung đại Việt Nam - “địa hạt” của những điều kì lạ, siêu nhiên, huyền bí, sản phẩm của trí tưởng tượng của con người thời trung đại làm ta liên tưởng đến yếu tố huyền thoại, kì ảo phổ biến trong văn học.
Kì ảo là một tính từ chỉ những gì “được tạo nên bởi trí tưởng tượng, chứ không tồn tại trong thực tế ”, “gợi lên những chuyện ma quỉ, cái siêu nhiên, những giấc mơ quái đản, kể cả những ác mộng” (M.Renard). Kì là lạ lùng; ảo là không có thật. Từ đó có thể hiểu: “Cái kì ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trong thế gian này, nói chung là cái siêu nhiên, nếu ta hiểu các siêu nhiên là những gì không tồn tại ở trên đời” (Phùng Văn Tửu). Như vậy, phạm vi của cái kì ảo trong văn học là rất rộng, từ các vị thần trong thần thoại, các ông bụt bà tiên, mụ phù thủy trong truyện dân gian, đến các quỉ sứ, hồn ma, phép thuật, người biến dạng...trong truyện trung đại, hiện đại bởi đó đều là những hiện tượng siêu nhiên, nhân vật siêu trần. Theo đó, dễ dàng thấy trong văn chương cổ kim Đông Tây xuất hiện nhiều yếu tố kì ảo: Hămlet (thế kỷ XVII), Truyện Kiều (thế kỷ XVIII), Truyền kì mạn lục (thế kỷ XVI), Liêu Trai chí dị (thế kỷ XVIII, XIX), hay sáng tác của Hoffmann, A.Poe, H.Balzac thế kỷ XIX, của F.Kafka, Aymé, Boges thế kỉ XX... Nhưng không phải bất cứ tác phẩm nào xuất hiện yếu tố siêu nhiên đều là văn học kì ảo. Do vậy, cần có sự phân biệt “cái siêu nhiên” thuộc về “thế giới bên kia” đầy bí ẩn và “cái siêu nhiên” thuần túy do trí tưởng tượng của nhà văn sáng tạo nên.

Trường hợp thứ nhất, cái siêu nhiên là những quỉ dữ, bóng ma, oan hồn, thần chú, thánh thần trên thiên đường dưới địa phủ... nói chung là “thế giới bên kia” xuất hiện ở “bên này” với những năng lực bí ẩn chi phối đời sống con người. Đây là những hiện tượng xuất hiện nhiều trong tác phẩm của nhiều nhà văn như Bồ Tùng Linh ở Trung Quốc, Nguyễn Dữ ở Việt Nam...
Trường hợp thứ hai, cái siêu nhiên là những sự kiện, con người trên thế gian được kì ảo hóa qua sự tưởng tượng của nhà văn, và tất nhiên ở đây chẳng có thế lực siêu nhiên, chẳng có dấu vết thần linh nào đối với nhân vật, sư kiện. Đây chính là chất liệu của văn học kì ảo nở rộ ở phương Tây thế kỉ XIX, XX. Ví dụ: các nhân vật hiện tượng trong Biến dạng, Một người thầy thuốc ở nông thôn, Cái hang thú của Kafka, Người đi xuyên tường của Aymé, Cụ già với đôi cánh lớn của Macquez...Với tính chất là sự “xuất hiện đột ngột của cái siêu nhiên trong thế giới tự nhiên”, “sự xâm nhập tàn bạo của điều bí ẩn vào cuộc sống thực tại”, cái kì ảo trong văn học kì ảo thực sự gây cảm giác mãnh liệt, “mang cái ý nghĩa khủng khiếp, sợ hãi, kì quái, bí hiểm.” Chính cảm giác đó tạo nên chất lượng, sức hấp dẫn của văn học kì ảo.
Sự phân biệt giữa văn học kì ảo và cái kì ảo trong văn học giúp ta nhận ra yếu tố kì ảo trong văn học truyền thống với khuynh hướng văn học kì ảo hiện đại. Trong văn xuôi trung đại Việt Nam tồn tại yếu tố kì ảo. Nếu trong văn học kì ảo, cái kì ảo được dùng là thủ pháp nghệ thuật, là “hình thức thuần túy” trong mối quan hệ với nội dung, tư tưởng thì trong văn xuôi trung đại cái kì ảo chính là yếu tố nội dung, là bản chất của thế giới bên cạnh yếu tố có tính nghệ thuật. Giống như cái kì ảo, các yếu tố tâm linh trong văn học là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người. Nhưng, mang hình thức kì ảo, hoang đường, siêu nhiên, yếu tố này tồn tại như một tất yếu, là hiện thực thứ hai tồn tại song cùng hiện thực trần thế. Ở đó, con người luôn tin vào những điều huyền hoặc, những hiện tượng mang tính quái dị, hoang đường mà không hề nghi ngờ sợ hãi. Chính niềm tin ấy tạo nên nét riêng trong đời sống tâm linh dân tộc một thời kì.
Liên quan đến những yếu tố có “tính mập mờ khó phân định giữa thực và ảo” trong văn học, huyền thoại cũng là một vấn đề được nhiều người quan tâm.
Theo cách hiểu phổ biến, huyền thoại là những sáng tác không tưởng từ xưa đến nay, những hiện tượng văn học mang tính chất của những sáng tác văn hóa dân gian thời cổ. Huyền thoại chính là sản phẩm của kiểu tư duy cổ nguyên sơ nhất của nhân loại - tư duy huyền thoại. Ở hình thức có tính tưởng tượng, huyền hay và kì diệu, huyền thoại là một

yếu tố có sức sống lâu bền trong văn chương xưa nay. Nếu ở thời cổ đại, huyền thoại là phương tiện nhận thức thế giới, là phương pháp biểu đạt tình cảm suy nghĩ, ước mơ, nguyện vọng của người nguyên thủy thì ở thời hiện đại, đặc biệt trong văn học phương Tây, huyền thoại chủ yếu được dùng là một thủ pháp nghệ thuật- huyền thoại hóa nhằm phản ánh hiện thực muôn màu và phản ứng của con người, sự đổ vỡ niềm tin trước một trật tự không còn phù hợp với qui luật tự nhiên của sự sống.
Dù tồn tại dưới dạng nào, là một kiểu tư duy hay là thủ pháp nghệ thuật, phương pháp sáng tác thì huyền thoại đều sử dụng cái có tính chất hoang đường kì lạ làm yếu tố nghệ thuật có tính chất công cụ. Huyền thoại trong văn học phát triển rực rỡ nhất, mạnh mẽ nhất ở thời kì hiện đại bởi nó mang lại hiệu quả cao trong việc giải quyết vấn đề cơ bản có tính quyết định: vấn đề quan hệ với hiện thực của huyền thoại.
Đến đây ta đã thấy mối liên hệ giữa yếu tố văn hóa tâm linh với yếu tố huyền thoại trong văn học. Thể hiện đời sống tâm linh con người thời trung đại, văn xuôi thời kì này chứa đựng bao yếu tố huyền hoặc, siêu nhiên, hoang đường. Những yếu tố ấy có được trong trí tưởng tượng và quan niệm của nhân dân, luôn hiện hữu trong đời sống. Tất nhiên trong văn học trung đại, những yếu tố này không chỉ là tư duy về thế giới của con người mà còn là yếu tố có tính nghệ thuật được các tác giả sử dụng trong việc tái hiện đời sống hiện thực và chuyển tải tư tưởng, tình cảm của con người đương thời. Và như thế, ta có thể gọi những tác phẩm văn xuôi có yếu tố văn hóa tâm linh ấy là những tác phẩm mang tính huyền thoại.
Sự mở rộng liên hệ trên giúp ta có cái nhìn khái quát về yếu tố văn hóa tâm linh trong tương quan với các yếu tố khác gần với nó. Qua đó một lần nữa khẳng định những nét riêng độc đáo của bộ phận văn xuôi trung đại.
1.1. 2.3. Khái quát văn xuôi trung đại
Văn học trung đại Việt Nam có hai bộ phận song song tồn tại cùng phát triển: văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Do hoàn cảnh lịch sử xã hội đương thời, những tác phẩm văn học đầu tiên đều viết bằng chữ Hán. Các thể loại từ truyện ngắn, ký đến tiểu thuyết chương hồi đều phản ánh khá chân thật và toàn diện đời sống tâm linh, sinh hoạt văn hóa tâm linh đa dạng của người dân Việt.
Trên các chặng đường thịnh suy, các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử - xã hội Việt Nam thời trung đại, nền văn học cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn. Trên cơ sở thành tựu thể loại, đặc trưng nghệ thuật và chủ đề của các tác phẩm văn xuôi trung đại, chúng tui tạm chia tiến trình văn xuôi trung đại qua ba chặng đường: Từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV, từ thế kỷ XVI đến thế kỉ XVII, từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Việc phân chia giai đoạn chỉ có tính chất tương đối nhằm giới thiệu sơ lược các tác phẩm thuộc các giai đoạn có cùng xu hướng tư tưởng hay đặc điểm nội dung nghệ thuật.
1.1.2.3.1. Giai đoạn thứ nhất : từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
làm phép cho ông chết giả gặp con trai đầu đã chết báo ông lập đàn sám hối (Nhận ra mẹ đẻ-CDTK); ông sư tiên cho một người bạn ăn củ linh chi chữa bệnh và anh giám sinh thuật cầu cúng chữa bệnh cho người (Ông sư tiên núi Nưa- SCTT). Lại có khi tiên nhân xuất hiện dưới hình dạng một người bình thường: cụ già hiện lên trao cho Trương Ba 3 nén hương thắp khi cần, sau làm phép nhập hồn cho Trương Ba đầu thai kiếp khác (Đế Thích ký - CDTK); ông già rách rưới làm đạo bùa cho cô gái hóa ra đống xương trắng giúp Hoàng khỏi bệnh (Xương Giang yêu quái truyện); Hải tiên hóa kiếp làm vợ Thúc Ngư rồi ban cho chàng phép thuốc chữa bệnh (Ngư gia chí dị - TTDT).
Bùa phép cấp cho các pháp sư, thầy phù thủy khả năng kỳ bí vô hạn nên quần chúng rất tin vào họ. Lợi dụng tâm lý này mà các quan đô hộ Trung Quốc đã kiên trì theo đuổi chính sách đồng hóa nhân dân ta. Họ không chỉ đề cao uy thế bằng cách bịa đặt ra việc thần linh của người Việt có quan hệ, chịu ân tước và lệ thuộc vào họ (truyện về Lý Ông Trọng, thần sông Bạch Hạc, Cao Lỗ, Lý Phục Man trong LNCQ) mà đi xa hơn còn thông qua bùa phép để uy hiếp dân chúng. Đó là sự thật về quan đô hộ Cao Biền với những câu chuyện về thuật yểm trấn thần linh (truyện về thần núi Tản Viên, thần sông Tô Lịch). Ông ta muốn cho người dân ta tin rằng đến cả thần linh của đất Việt còn phải khuất phục trước uy quyền của quan đô hộ thì nhân dân chớ dại dột mà coi thường. Nhưng thủ đoạn của Cao Biền đã thất bại, đối với các chính thần phương Nam thì phép thuật ấy chỉ là trò trẻ con khiến ông ta phải thú nhận “Linh khí ở phương Nam thì ta không lường được. Ôi, vương khí đất này không đời nào có thể hết được” (Tản Viên sơn thần truyện). Như vậy, trong khi vẫn tiếp thu nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo, thì nhân dân ta vẫn chống lại việc quan đô hộ sử dụng Đạo giáo như một công cụ để phá hoại tín ngưỡng dân gian nói riêng và văn hóa dân gian bản địa nói chung.
Tính chất “mở” trong tín ngưỡng người Việt còn ở sự pha trộn giữa Đạo giáo và Phật giáo cũng như cả hai tôn giáo này với tín ngưỡng dân gian. Trong các tác phẩm văn xuôi ta thấy xuất hiện nhiều nhân vật là nhà sư có phép thuật siêu phàm. Phổ biến hơn cả là truyện về phép thuật cao cường của nhà sư Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không (Từ Đạo Hạnh - Nguyễn Minh Không truyện - LNCQ; Minh Không thần dị - NOML, Sự tích đại thánh Từ Đạo Hạnh - Khuyết danh). Hay là truyện về thiền sư Đại Điên dùng phép đánh chết cha của Từ Lộ, rồi Từ Lộ học được phép trả thù cho cha, dùng bùa diệt trừ mưu đầu thai làm con vua Lý Nhân Tông của Đại Điên. Điển hình là câu chuyện thác sinh của Từ Đạo Hạnh làm vua Lý Thần Tông, Minh Không có phép thần dị đi mưa về gió, chữa bệnh hóa hổ cho Lý
Thần Tông. Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không không chỉ được triều đình ban tước lộc mà còn được nhân dân thờ phụng như những bậc thánh thần. Đó còn là truyện về danh tăng Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền dùng phép thần thông diệt trừ yêu quái ẩn hình trên cung điện đời Lý Nhân Tông (Tăng đạo thần thông-NOML, Thiền uyển tập anh). Hay truyện về các nhà sư khác: ni sư Tuệ Thông trước khi tịch dặn đệ tử để lại ít xương mài nước chữa bệnh cứu người (Ni sư đức hạnh - NOML); sư Pháp Vân làm phép trao cho Nhược Chân diệt yêu quái trừ họa cho gia đình (Đào Thị Nghiệp oan ký); sư chăn trâu có phép làm mâm cỗ chay đãi thợ xây chùa trong giây lát (Sư chăn trâu - CDTK).
Rõ ràng, truyện về các nhà sư là biểu hiện sự kết hợp khó tách bạch giữa các tín ngưỡng tôn giáo thời Lý Trần. Theo GS Nguyễn Huệ Chi: “Có thể thấy Nguyễn Minh Không phonclo hóa chính là con số cộng giữa một Không Lộ Thiền Tông và một Không Lộ Mật Tông. Nhưng có phần chắc điểm xuất phát đầu tiên của các thần lực siêu việt của vị sư Minh Không này chính là nguồn tín ngưỡng bản địa rất phong phú trong đời sống người Việt, nó không tách rời khỏi mọi thứ bùa chú dân gian, cũng như về mặt tư tưởng, nó thấm đậm triết lý dân gian của dân tộc Việt Nam” [16, tr15]. Cũng là sự tu luyện như ở Đạo giáo, Phật giáo đề cao quá trình tu tâm và thần bí hóa kết quả sự tu luyện ấy. Các thiền sư nhờ công phu tu tập mà có những khả năng phi thường hữu ích cho nhân dân. Phép thuật kỳ lạ phi thường của họ nhất là phái Mật Tông được kể khá nhiều trong Thiền uyển tập anh và Tam tổ thực lục: Thiền sư Ma Ha có khả năng niệm chú chữa bệnh hiểm nghèo, thiền sư Đạo Huệ đọc kinh cảm hóa cả khỉ và vượn trong núi, sư Huyền Quang có khả năng phù phép cảm thông trời đất, có thể hô gió gọi mây. Những chi tiết huyền bí này có liên quan đến quan niệm của người xưa cũng như của thi pháp văn học trung đại về các danh nhân đấng bậc. Còn về mặt tín ngưỡng, đây là kết quả sự “hỗn dung” như nhận định của GS. Trần Văn Giàu: “Phật giáo đã lẫn lộn rất nhiều với tư tưởng Đạo giáo. Nếu chỉ thuần theo triết lý Thiền Tông thì Đạo Phật không đi vào quần chúng được. Muốn đi vào quần chúng Việt Nam thì không khỏi thỏa hiệp với tư tưởng tín ngưỡng dân gian ma thuật vốn có (dẫn theo Ngô Đức Thịnh) [117, tr257].
2.1.4.2. Xem tướng số, bói toán
Tin vào phép thuật, người Việt cũng rất tin vào tướng số nên thuật xem tướng và bói toán - một xu hướng gốc Đạo giáo cũng khá phổ biến trong tín ngưỡng Việt Nam. Hai thuật này có từ lâu ở Trung Quốc và rất thịnh hành với các loại số tử vi, tướng thuật, bói âm dương.... Nhưng khi ảnh hưởng vào Việt Nam, hình thái này chỉ được người dân tiếp thu

phù hợp với tâm lý thích bói toán để biết trước những gì sắp xảy ra. “Nước ta tin việc quỷ thần, cho nên cũng theo cách Tàu mà chuộng việc bói toán. Bói cốt là đem việc mình mà hỏi quỷ thần, để quyết cái lòng mình ngờ vực, định cái sự mình hồ nghi, cho đặng biết đường hay lẽ phải để theo về đường lành đường dữ” [67, tr714].
Xem tướng số, bói toán trước hết ở các thầy bói hay những tiên nhân giáng thế, các vị thầy tu. Họ là những người tinh thông phép thuật và có khả năng tiên tri mệnh số. Thầy bói xuất hiện dưới những hình dạng khác nhau: thầy bói chiết tự xem cho Nguyễn Công Hãng hãy mạnh dạn rút quan khi nổi tiếng để tránh họa sau (Nguyễn Công Hãng-TTNL); người cổ quái Danh Tiêu gặp trong kỳ thi Đình phán có ba tiến sĩ thì nhà ông có một rồi biến mất (Tiến sĩ Trần Danh Tiêu ký - Nam thiên trân dị tập); bà già mù xem tướng ở xương cho quan chế phủ biết ông là gã ăn mày có mắt rồng như giấc mơ của mẹ ông ta khi sinh ra ông (Tướng cốt - VNTS); người tiều phu đề dòng chữ báo trước chỗ cha con nhà Hồ gặp nạn sau này (Na Sơn tiều đối lục - TKML). Đôi khi người phán số là vị thầy tu (Đào Thị Nghiệp oan ký) hay một tướng giặc: Tướng giặc Hoàng Phúc đoán mả nhà Nguyễn Trãi có vận tru di (Lê Công Trãi), một người bình thường: Lương Đắc Bằng trước khi chết nói với vợ nếu sinh con trai ngày sau sẽ lập nghiệp thần kỳ (Thượng thư Lương Hữu Khánh - CDTK). Chính sự ứng nghiệm của những lời phán bảo đã gây niềm tin cho con người, nên trước một sự việc diễn ra họ cũng cần sự bói toán: linh cảm trước điềm báo của trời đất trong đêm hành quân gấp rút, nàng Bích Châu bói quẻ kinh dịch thấy chuyến hành quân đại bại (Hải khẩu linh từ lục); thấy đàn hổ kéo về đông, dân làng cả sợ đi xem bói mới biết đó là chúa sơn lâm đền ơn hổ ông nhân ngày giỗ (Hổ lão nhân ký- CDTK). Việc bốc phệ là do các tiên thánh đặt ra và cuộc sống dù có “nhân định thắng thiên” nhưng người Việt vẫn tin vào mệnh số vì “trăm điều làm sao chẳng tin được một hai điều”.
2.1.4.3. Thầy địa lý chỉ đất thiêng
Trong quan niệm của người xưa, một người tài năng phi thường ngẫu nhiên được trời đất phú bẩm cho, nhưng người ta cũng có thể tạo ra điều kiện tiếp nhận năng lượng vũ trụ bằng thuật phong thủy. Do đó nhiều truyện kể về nhân vật là các danh nhân, người đỗ đạt khoa bảng hay người bình thường trở nên giàu có được bao phủ bởi vòng hào quang của thuật phong thủy.
Thuật phong thủy là một sản phẩm khác của Đạo giáo dựa trên quan niệm núi sông có linh khí, nơi nào linh khí hội tụ thì sẽ phồn thịnh, có lắm người tài. Hai cơ sở của nó là gió (phong) thuộc dương và nước (thủy) thuộc âm. “Nó là cách áp dụng nguyên lý âm dương và

ngũ hành vào việc xem đất để đặt mồ mả, dựng nhà định đô thị” [85, tr239]. Đất lập cửa nhà gọi dương cơ, đất để mả gọi là âm phần. Người ta cho rằng âm phần quan trọng hơn vì con người ta chịu các di thể của cha mẹ, hễ hài cốt của cha mẹ được chỗ sinh khí thì con cái cũng được mát mặt.
Với niềm tin âm phù dựa trên kiểu đất, hình đất, thuật phong thủy có ảnh hưởng rất rõ trong việc tìm huyệt mạch của đông đảo tầng lớp nhân dân ta. Môtip này có sức hấp dẫn đối với các tác giả văn xuôi trung đại. Chúng thỏa mãn tính tò mò của con người trong hoàn cảnh còn hạn chế khả năng phân tích các nguyên nhân hiện thực dẫn đến thành công. Mặt khác, lại có thể liên tưởng đến thuật phong thủy vốn đang thịnh hành trong đời sống đến những câu chuyện truyền miệng nổi tiếng về các thầy địa lý Tàu, Ai Lao đặt mả giấu của đầy huyền bí, hay một chuỗi liên hoàn chuyện về cụ Nguyễn Hữu Huyên làng Tả Ao - Hà Tĩnh.
CDTK là một tác phẩm tiêu biểu về phương diện khảo sát ảnh hưởng thuật phong thủy đến sự nghiệp của các nhân vật. Đinh Tiên Hoàng trở thành “bậc anh tài cái thế” của 12 sứ quân và tránh được nhát kiếm của người chú được giải thích bằng việc người phương Bắc xác định được chỗ có thần vật: “Đêm người khách xem thiên văn, thấy một luồng khí sáng hồng, vọt từ trong đầm lên trời, ngắm nhìn kỹ lưỡng khí sáng đó thì thấy nó như một dải lụa chiếu thẳng vào sao Thiên Mã” (Đinh Tiên Hoàng). Sự vinh hiển trên con đường khoa cử của các nhà nho cũng bắt nguồn từ thế đất có được và đó cũng là phúc lộc họ được hưởng từ phúc đức của cha mẹ: ông Nguyễn Phúc Ngộ hoàn trả số bạc tiền nhân của người phương Bắc để lại mà được chỉ cho ngôi đất ở nên con cháu ông đời nào cũng sinh văn nho, đỗ đạt và làm quan (Tìm đất đền ơn), ông Giáp Hải đậu trạng nguyên và làm quan là nhờ một người khách lạ tìm đất táng mộ tiền nhân trả ơn cho thân mẫu của ông chuyên làm ơn cho người qua đường (Nhận ra mẹ đẻ). Trâu canh vì cùng kiệt khó mà được thầy địa lý chỉ cho ngôi đất thiêng làm nhà ở, sau có được bài thuốc chữa bệnh cho vua Trần Dụ Tông mà trở nên giàu có, được sủng ái (Trâu Canh). Đến ngay việc suy vong của nhà Trần cũng có nguyên nhân từ phong thủy: Trần Công vì làm ơn cởi trói cho thầy địa lý Tàu bị Nguyễn Cố mưu hại đã được chỉ ngôi đất quý táng mộ tổ “trước mặt trông ra ngã ba sông(...) Phía sau gối vào voi phục, lâu dài, cờ kiếm la liệt hai bên, huyệt điểm vào chỗ “Thổ- Phúc- Tàng- Kim”, tìm đất giấu vàng “ngồi phương Càn trông chữ Tốn”. Từ khi táng mộ đến đời thứ ba sinh ra Trần Cảnh (Trần Thái Tông), nhưng sau nhà Trần mắc mưu, suy yếu, mất về tay Hồ Quý Ly” (Ngôi mộ họ Trần).

TTNL cũng là tác phẩm mang không khí phong thủy. Ông Nguyễn Trật đỗ mấy trường thi hội vì được thầy địa lý chỉ cho chỗ đất táng mộ (Nguyễn Trật). Thuật phát bùa chữa bệnh của đạo sĩ ở Thanh Hóa là do được thầy địa lý Tả Ao chọn đất táng mộ tổ đền ơn cho ăn lúc đói (Trấn Võ Quán). Anh em ông Đàm Thận Huy sở dĩ nối tiếp nhau thi đỗ, làm quan vì bà mẹ ông xin thầy địa lý đặt ngôi mả cho chồng (Đàm Công Thận Huy). Sự ra đời của Nguyễn Hữu Chỉnh - một kẻ gian hùng ở đời loạn cũng được giải thích là do thân phụ ông xin đất táng mộ tiền nhân (Mả tổ Quận Bằng). Theo Phạm Đình Hổ trong VTTB, Đỗ Uông thời nhà Mạc sở dĩ đỗ bảng nhãn vì gia đình ông được người Hoa đặt cho ngôi mộ phát tích (Ông Đỗ Uông). Ngoài ra sự hiển đạt của một số nhân vật là nhờ gia đình có được chỗ đặt âm phần ở thế “mả táng hàm rồng”: nhân vật trạng nguyên trong Nốt đỏ ở chân (Hát đông thư dị) và Trạng nguyên đạo sĩ (SCTT), chân nhân Phạm Viên trong truyện cùng tên (Nam thiên trân dị tập). Đến cả vị trí hoàng đế của Lê Thánh Tông cũng mang dấu vết phát tích từ phong thủy: bà mẹ vua ngụ ở chỗ mà các thầy tướng số đánh giá là có khí “thiên tử” (TTNL).
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top